Kinh Nghiệm Xem Tướng
Các phương pháp nhận dạng cá nhân qua dấu vết lỗ tai, dấu vân tay, hình dạng của mũi...là một khoa học dựa trên nghiên cứu các bộ phận của con người, thuật xem tướng cũng vậy được đúc kết từ kinh nghiệm quan sát hàng ngàn năm của tiền nhân.
Tôi đam mê bộ môn tướng pháp từ lâu. Việc quan sát và nhận định về một con người với tôi thực sự là điều lý thú. Qua kinh nghiệm nhiều năm, những nhận xét bắt đầu đúc kết lại những nhận định riêng như sau:
*Nếu các bạn chưa biết Nhân Tướng Học, nên tìm đọc cuốn cuốn Nhân Tướng Học của Hy Trương để hiểu đại cương về tướng học mà thôi
*Nhận dạng tồng quát: Nghiên cứu các mẫu biểu hiện trên khuôn mặt khác nhau như tức giận, vui mừng... qua thực tế cũng như phim ảnh để xây dựng các kỹ năng đọc trên khuôn mặt của con người. Sau đó để ý dến hình dáng con người ra sao, đi đứng thế nào, hình dạng có gì đặc biệt, điệu bộ cử chỉ như thế nào do toàn thân toát ra vẻ quý phái, nghèo hèn, gian xảo,ngay thẳng, ngu đần, ngang bướng, háo sắc....tôi xếp loại người hung ác, hiền hậu, phú quý, bần tiện... mà tôi đã biết từ đó như là nhiều mẫu người (Liên hệ nhiều người với nhau xem có điểm chung như mũi chim ưng cộng thêm với cặp mắt liếc xéo ánh mắt đảo điên có bao giờ là người hiền lành). Do nhận thức bằng cảm tính của tôi dựa vào kinh nghiệm mà tôi thu thập các mẫu người sau khi suy nghĩ và so sánh là tạm đủ để mà phán đoán ít khi bị lầm lẫn.
*Người ta thường nói: "Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn ". Chúng ta phải thừa nhận rằng vị trí quan sát thần là cặp mắt con người, đôi mắt có thần thì sáng quắc linh động với một sức mạnh vô biên như soi vào tâm hồn người đối diện còn đôi mắt không có thần nhìn vào có cảm giác như là buồn ngủ, mắt không mở to được như không có sức sống... Do vậy ta có thể biết ánh mắt mạnh hay yếu, dữ hay hiền, thông minh, ngu đần...
*Nghe âm thanh biết giọng đàn ông, đàn bà, trẻ con, bà già, ông già. Đàn ông phài có giọng đàn ông và đàn bà phải là giọng đàn bà. Đàn ông có giọng đàn bà phần lớn đều khó thành công sự nghiệp. Đàn bà mà có giọng đàn ông thường khắc chồng, khắc con. Giọng đàn ông phải mạnh mẽ, trầm hùng trong trẻo có âm vang xa và ấm. Giọng đàn bà phải trong và ấm, ôn hoà, nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng.
*Quan sát khí sắc có thể biết được sức khỏe của người đó thế nào, từ đó có thể nhìn thấy thọ yểu của người đó ra sao.
Nếu bạn có tâm hồn trong sáng và qua kinh nghiệm quan sát mẫu người sẽ cho biết họ là hạng người xấu, người tốt...
By Thông Mộng Gia Lanba
Các bạn có thể tham khảo thêm:
*
Bí Ẩn Của Tướng Thuật
Tác giả Vương Ngọc Đức và Trần Hưng Nhân
Phương pháp xem tướng đều thông qua việc quan sát kỹ lưỡng để dự báo cát
hung họa phúc, ở đây chỉ xem xét và quan sát các loại hình của tướng thuật. Về
đối tượng được nghiên cứu bao gồm 3 loại là hình thể, mạch và vật thể, từ đó
phân tướng thuật làm ba loại là hình tướng, mạch tướng và vật tướng.
1. Hình tướng
Người ta thường nói tướng thuật, kỳ thực là chỉ hình tướng. Hình tướng là qua
việc quan sát các bộ vị của thân thể và sự biến hóa tương quan giữa chúng để dự
báo cát hung. Đó là nội dung chủ yếu của tướng thuật mà chúng ta thường nói tới.
Tướng thuật cho rằng “mệnh người do thiên bẩm và biểu lộ ra ở hình thể”. “Tính
mệnh lộ ra ở hình cốt, cát hung thể hiện ở khí mạo”, “phàm giữa mệnh và tướng
giống như âm thanh và tiếng vang. Âm thanh từ mình phát ra, tiếng vang liền ứng
theo, tuy mọi người thọ yểu khác nhau, hiền ngu không giống nhau, nhưng quy luật
chung là có thể biết được”. “Bởi vì thân thể không lúc nào không biểu lộ ra
những dấu hiệu của sinh mệnh”, “cho nên các thánh hiền thời xưa thường xem hình
mạo để biết tính chất, biết tính chất thì hiểu rõ cái tâm, hiểu rõ cái tâm thì
biết cái đạo. Quan sát hình mạo sẽ thấy cát hung rõ ràng. Vả lại Phục Hi có nhật
giác, Hoàng Đế có long nhan (mắt rồng) Thuấn có hai con ngươi, Văn Vương có bốn
vú, đều là tướng của người xưa, thể hiện ra như vậy, là thánh nhân vậy. Còn tất
cả mọi người hiền ngu khác, cũng đều thể hiện ra ở mọi dấu hiệu nhỏ bé ở bàn tay,
ngón tay, không ai ra khỏi quy luật chung đó. Vì vậy, thuật xem tướng hình thần
bắt đầu được xây dựng nên”. (“Thái thành thần giám” – Tự). Rõ ràng, thông qua
hình thể để phân biệt thiện ác cát hung là phương pháp và nội dung cơ bản của
hình tướng. Sự quan sát hình thể nhằm mục đích vạch ra thiện ác và tính tình, sự
thiện ác của tính tình là cơ sở của cát hung.
Nếu hình tướng lấy nhân thể làm đối tượng quan sát, thì mọi bộ vị của thân thể
có thể là dấu hiệu biểu lộ ra, như xương khớp, da thịt, lông mày, râu ria, lông
tóc, trán má, mắt, mũi, miệng, môi, răng, lưỡi, tai, cổ vai nách, lưng, vú, bụng,
eo lưng, rốn, hậu môn, tứ chi, tay, chân, bàn tay, ngón tay, móng tay, móng chân,
khí quan sinh dục, tinh thần khí sắc, bởi lẽ cử chỉ cho tới việc đại tiểu tiện
đều là những cái bao hàm xâu xa liên quan tới số mệnh khác nhau và trở thành đối
tượng quan sát. Thoạt nhìn qua hình thái người ta khác nhau, nhiều biểu hiện rối
rắm phức tạp, nhưng trên thực tế đều có dấu hiệu để nắm bắt, đều có ý nghĩa. Chỉ
cần nắm vững quy tắc vận động của hình thái có thể hiểu rõ được điều đó, có thể
vạch ra những thông tin về số mệnh làm chứa trong đó. Trong con mắt nhà tướng
thuật, sự huyền bí của tướng thuật chỉ là do dân chúng nói chung không hiểu được
các “mật mã” chỉ thị số mệnh mà thôi. Trình độ cao thấp của các nhà tướng thuật
biểu hiện ở sự thông hiểu các “mật mã” đó và trình độ thao tác của họ.
Ban đầu, sự quan sát và bình luận của các tướng thuật gia đối với các bộ vị của
hình thể tương đối thô sơ và giản đơn. Cuốn “Tướng pháp thập lục thiên” thác
danh Hứa Phụ chỉ căn cứ vào 14 bộ vị cụ thể của thân thể người và 2 mặt hành vi,
tiếng nói để bình phán về số mệnh con người, vả lại mỗi điều lại riêng rẽ, không
liên quan bổ trợ cho nhau. Ngoài ra, các thầy tướng mỗi người lại chỉ chú trọng
đến những bộ vị khác nhau, như vậy tất nhiên sẽ dẫn tới kết quả là do biểu trưng
ở các bộ vị của mỗi con người khác nhau nên sẽ suy ra những kết luận về số phận
khác nhau nên sẽ suy ra những kết luận về số phận khác nhau, và không thể nào
phản ánh được những sai khác nhỏ bé trong số phận giữa người này với người khác
và sự chìm nổi, biến hóa trong số phận của một con người nên không thể kết luận
cho tròn trĩnh được. Thế là, hình tướng rất nhanh chóng phát triển theo ba hướng.
(1) Sự đi sâu, chia nhỏ trong cơ cấu các bộ vị của cơ thể. Sau này, hình tướng
không giản đơn lấy sự khác biệt đại khái của một bộ vị nào đó để làm căn cứ phán
đoán số mệnh nữa, mà tiến hành quy nạp, phân loại, coi chúng nằm trong hệ thống
lớn và hệ thống nhỏ có tầng thứ rất chi tiết, nội dung rất phong phú. Như về mặt
chia ra làm 13 bộ vị, thuộc về một hệ thống lớn. Riêng về tai đã chia ra hơn 20
loại có quan hệ đến số mệnh, thuộc một hệ thống nhỏ. Sự phối hợp liên hệ giữa hệ
thống lớn và hệ thống nhỏ đã giải quyết được những sai biệt nhỏ về số mệnh giữa
người này với người khác. Sự bình phán về số mệnh đã từ chỗ giản đơn phán đoán
về thọ yểu, sang hèn phát triển thành sự dự báo về hoạn lộ, nắm được thăng tiến,
tật bệnh, sinh đẻ, gia đình, họa phúc, ăn uống, đi xa, v.v…, hầu như trình bày
hết mọi nội dung sinh hoạt của một đời người. (2) Sự chỉnh thể hóa các bộ vị của
hình thể. Lúc ban đầu, tướng thuật không xem cả toàn thân để dự đoán số mệnh. Có
người thiên về xem tướng mặt, có người thiên về xem cốt tướng …. người nào theo
thuyết của người đó, thành nhiều chi phái. Sau này phát triển lên, tướng thuật
ngày càng chặt chẽ, đại đa số thầy tướng không còn xem xét cô lập một bộ vị để
dự đoán số mệnh nữa mà coi mọi bộ vị trong hình thể là một thể thống nhất hữu cơ,
mỗi bộ vị có tác động chủ yếu hoặc thứ yếu đến số mệnh và chi phối những mặt
khác nhau của số mệnh. Việc xem hình tướng cũng theo thứ tự nhất định, tức là
trước hết xem xương khớp, sau đến tam đình rồi đến mặt và khí sắc …. gọi là
“thập quan pháp”. Sau cùng tổng hợp mọi biểu trưng bên ngoài rồi dự đoán số mệnh.
Như vậy, giải quyết được vấn đề những hình tướng khác nhau, sẽ có số mệnh khác
nhau. (3) Động thái hóa sự giải thích số mệnh. Hình tướng của con người là một
đặc trưng sinh lý suốt đời biến đổi rất ít. Lấy đó mà bàn mệnh vận, tất nhiên sẽ
dẫn tới tình trạng “cứng đờ”, chỉ thấy mệnh mà không thấy vận, mà trên thực tế
thì mệnh vận con người không ngừng biến hóa. Vì vậy, tướng thuật lại đề xuất ra
thuyết về khí sắc, tức là căn cứ vào màu sắc đỏ, vàng, xanh, đen, tía, trắng
biểu hiện ở các bộ vị khác nhau trên mặt để suy đoán họa phúc cát hung trước mắt
và lâu dài về sau. Đồng thời lại xây dựng nên thuật số “lưu niên vận khí” và
phối hợp cái đó với mệnh tướng của các bộ vị trên hình thể. Đặc trưng bộ vị
quyết định số mệnh chung, còn khí sắc quyết định sự biến hóa cụ thể của cát hung
họa phúc trong một phạm vi thời gian không gian. Do đó mà tạo nên thuyết vận
mệnh vừa tương đối ổn định, vừa biến hóa vô cùng. Như vậy là, cuối cùng họ đã
cho xây dựng được một học thuyết trọn vẹn, không còn kẽ hở, giải quyết được toàn
bộ khó khăn của tướng thuật.
Do hình tướng là chủ thể của tướng thuật nên mọi người thường coi hình tướng là
toàn bộ tướng thuật. Để tiện theo dõi, những phần viết tiếp theo vẫn coi hình
tướng là nội dung chủ yếu của tướng thuật để phân tích và đánh giá.
2. Mạch tướng
Mạch tướng cũng còn gọi là Thái Tố mạch là một loại phương thuật thông qua sự
biến hóa về mạch trong cơ thể người để dự báo cát hung họa phúc. Vì thông qua
phương pháp chuẩn mạch của Trung Y để đạt tới mục đích đó nên nó coi là một loại
tướng thuật đặc biệt. Về nguồn gốc của mạch Thái Tố, hiện nay vẫn còn nhiều
thuyết khác nhau, nhưng thuyết được nhiều người nhất trí nhất thì cho rằng
Trương Thái Tố, người ở Thanh Sơn thời Minh được một vị ẩn giả bí mật truyền cho,
rồi ông thực nghiệm nhiều lần, chỉnh lý lại và lưu truyền ra. Thái Tố có viết
cuốn “Thái Tố mạch bí quyết” gồm hai cuốn thượng và hạ. Phương pháp mạch Thái Tố
mà ngày nay ta được biết là nhờ ở cuốn sách đó. Trương Thái Tố cho rằng, sự thay
đổi về mạch đạp của con người là cùng một nguyên lý với ngũ hành bát quái, Hà đồ
Lạc thư. Chỉ cần nắm vững bí quyết của mạch Thái Tố thì không những có thể chuẩn
bệnh cho người ta mà còn có thể dự đoán mệnh vận. Tương truyền, Thái Tố mạch
pháp linh nghiệm dị thường, không những có thể dự đoán mọi điềm cát hung, suốt
cả đời người, mà còn có thể căn cứ vào mạch tướng của cha để dự đoán tiền đồ vận
mệnh của con nữa.
Căn cứ vào nguyên lý chuẩn mạch của Trung Y, mạch quyết Thái Tố quy nạp sự biến
hóa của mạch tướng con người thành “ngũ dương mạch”, “ngũ âm mạch”, “tứ doanh
mạch”.
Gọi là “ngũ dương mạch” tức là năm loại mạch tướng: phù, hoạt, thực, huyền, hồng,
Thái Tố mạch quyết nói:
“ Phù là mạch nhẹ và ở bên trên, ẩn hiện hoãn tán, như nước làm nổi vật lên, ấn
mạnh xuống thì không thấy, để nhẹ tay thì thấy rõ, càng nhẹ càng thấy mạch, rõ
rành ở đầu ngón tay. Nếu tam bộ đều phù, thì tâm khí bất túc.
Hoạt, là mạch không có đầu nối như chuỗi hạt liên tục, ấn mạnh tay thì càng mạnh,
thấy rõ ở đầu ngón tay. Để nguyên tay thì thấy mạnh hơn mạch hồng. Nếu tam bộ
đều hoạt thì can khí bất túc.
Thực, là mạch ngược với hư. Nguồn mạch lâu dài không dứt, đặt nhẹ tay thì mạch
rõ, ấn mạnh tay thì thấp thoáng như mạch huyền, nhỏ hơn mạch hồng. Nếu tam bộ
đều thực thì là tì khí không đủ.
Mạch huyền là ấn tay xuống thấy căng như dây đàn, ấn mạnh thì đập vừa phải, ấn
nhẹ thì càng gấp, mạch tụ mà không tán, để lâu vẫn không thay đổi. Nếu tam bộ
đều huyền, thì phế khí không đủ.
Hồng, là mạch lớn, có nguồn sâu, dòng dài, ấn tay xuống tìm mạch, thấy không
huyền không phù, ấn nhẹ ấn nặng đều như vậy. Nếu lại tìm nữa thì bỗng thấy mạnh.
Nếu tam bộ đều hồng là khí bất túc”.
Năm hiện tượng phù, hoạt, thực, huyền, hồng là dấu hiệu của “Ngũ dương mạch”.
Chủ yếu khác nhau về mức độ nặng nhẹ, sâu nông. Như mạch phù là “nhẹ thì có
nhiều, nặng thì có ít”, mạch hồng là “không huyền không phù, nặng nhẹ đều có” ….
Gọi là “ngũ âm mạch” tức là bốn loại mạch: vi, trầm, hoãn, sắc.
Thái Tố mạch quyết nói:
“Mạch vi là mạch rất nhỏ và yếu, ấn mạnh tay để tìm thì thấy như sợi tóc, thấp
thoáng ẩn hiện, như trạng thái nửa có nửa không. Nếu tam bộ đều vi, thì là huyết
trệ và thần bất túc.
Mạch trầm, như hòn đá ném xuống nước chìm xuống tận đáy, ấn mạnh tay để tìm thì
phảng phất thấy. So với mạch vi, thấy mạch này hiện chậm trên xương. Nếu tam bộ
đều trầm, thì là vị (dạ dày) nghịch và khí bất túc.
Mạch hoãn, như sợi tơ trong máy không cuốn vào trục, ấn ngón tay thì thấy hoãn,
xê dịch thì thấy vi, nhưng lại không gấp bằng vi, không trầm không phục đó là
hoãn. Nếu tam bộ đều hoãn thì là thận yếu và tinh không đủ.
Mạch sắc, là trệ mà không hoạt, dưới ngón tay như có cát chìm, như dao vót tre,
trầm mà thô, ấn nặng thấy động vào ngón tay, ấn nhẹ thì như không có; trước thực
sau hư lặp lại không ngừng. Nếu tam bộ đều sắc thì hồn không đủ.”
So sánh với năm dấu hiệu của “ngũ dương mạch” thì “ngũ âm mạch” tỏ ra yếu ớt nhỏ
nhoi, mặt khác “ngũ dương mạch” lấy huyết khí của các bộ vị khí quan làm đối
tượng chuẩn đoán, còn “ngũ âm mạch” lại lấy tinh thần hồn phách của toàn thể con
người làm mục đích kiểm tra. Do đó thấy rằng “ngũ âm mạch” nhỏ yếu khó tìm, song
lại rất quan trọng, nếu tinh thần hồn phách của một con người trầm trệ bất túc,
thì hình thể cũng sẽ khô xác.
Gọi là “tứ doanh mạch”.
Thái Tố mạch quyết nói: Tứ doanh là nhẹ nặng và đục, là âm. Phàm muốn biết sự
sang hèn, giàu nghèo, thọ yểu của con người thì phải tìm trong tứ doanh mạch.
“Người có mạch khinh (nhẹ) thấy như ngón tay sờ vào ngọc, thuần túy ôn nhuận, là
người có trí thức minh mẫn, lộc vị quyền quý.
Người có mạch thanh (trong), thấy phẳng lặng trong và nổi, như lông vũ nhẹ,
không trầm không lắng, luôn thấy đập nhẹ.
Người có mạch trọng (nặng) thấy hoãn và thô, lấy tay ấn xuống thấy mạch đục,
mạch đục thì khí cũng đục.
Người có mạch trọc (đục) thấy đục, trầm mà căng lại ẩn có trọng trọc, cũng cần
xem xét bản nguyên của nó”.
“Tứ doanh mạch” xem ra có tính tổng hợp, tổng quát. Sau khi hiểu sâu hai loại
mạch “ngũ dương”, “ngũ âm”, còn cần phải đánh giá nghiên cứu tình hình nhẹ nặng
trong đục của nó, sau đó mới có thể tổng hợp dự đoán trạng thái vận động của
sinh mạng và từ đó suy ra xu hướng sang hèn, giàu nghèo, thọ yểu của mệnh vận.
Do đó, “tứ doanh mạch” là hết sức quan trọng.
Mạch Thái Tố lấy “ngũ dương mạch”, “ngũ âm mạch” làm cơ sở, lấy “tứ doanh mạch”
làm hệ quan chiếu đánh giá, rồi lại tham hợp mạch tướng nam nữ và tiêu chuẩn giá
trị của tướng lý, là có thể chỉ ra tiền đề mệnh vận của một cá nhân. “Thái Tố
mạch bí quyết nói rằng: “Mạch Thái Tố, lấy việc nhẹ trong hay nặng đục để bàn về
mệnh. Nhẹ trong là dương là giàu sang, nặng đục là âm, là nghèo hèn. Đàn ông lấy
bộ can mộc làm chủ, quyết định công danh cao thấp, đàn bà lấy vị phế kim đoài
làm chủ, quyết định việc phúc đức. Còn như nhẹ trong, như ngón tay sờ ngọc, thấy
thuần túy ôn nhuận, đập vào đầu ngón tay rõ ràng, lục mạch (sáu mạch) không khác
nhau. Như dòng chảy liên tục không đứt đoạn, dù có tật nhỏ, vẫn trong không đục,
chủ về người có bản tính xung hòa, trí thức minh mẫn, lộc vị cao, đó là mạch
trong nhẹ. Mạch nặng đục thì đập vào ngón tay không rõ ràng, như vung cát khô
khắp đầu ngón tay, trước lớn sau nhỏ, số lần ngưng nghỉ hỗn tạp, khắc với bản
thân, đó là mạch nặng đục, ấn ngón tay xem xét kỹ, không lần nào sai”. Đoạn văn
trên nói rõ thực chất của tướng pháp theo mạch Thái Tố.ớng pháp mạch Thái Tố chủ
yếu lấy bốn loại mạch nhẹ trong nặng đục làm phép tắc cơ bản để bàn về tướng
người. Người có mạch tướng nhẹ trong là sang người có mạch tướng nặng đục là hèn.
Nam giới chủ yếu cần nắm can mạch, theo đó để phán đoán công danh phú quý « nếu
tam bộ đều hoạt, là can khí bất túc » đó là điều kỵ với mạch tướng đàn ông. Nữ
giới chủ yếu cần nắm phế mạch, do đó có thể phán đoán phúc phận. « Nếu tam bộ
đều huyền là phế khí không đủ », đó là điều kỵ với mạch tướng của đàn bà.
Mạch Thái Tố dung hợp cả mạch lý của Trung Y và các yếu tố văn hóa âm dương ngũ
hành, Hà đồ, Lạc Thư, rồi dùng tiêu chuẩn giá trị của tướng lý để đối chiếu,
phát huy tỏ rõ đặc trưng hòa trộn vào nhiều thành phần văn hóa. Vì loại tướng
thuật này lấy tên chính là chuẩn mạch của Trung Y nên càng dễ thu hút mọi người,
khiến mọi người tin tưởng, đã từng lưu hành rộng rãi trong thời Minh và nổi danh
là không sai bao giờ.
3. Vật Tướng
Trong lịch sử tướng học có một loại xem tướng dựa vào việc quan sát những đồ vật
có liên quan đến con người để dự đoán cát hung quý tiện của người đó. Môn đó gọi
là Vật Tướng.
Tướng thuật giống như một cây có nhiều cành lá, sinh ra nhiều môn phái khác nhau,
nên nhiều người nghiên cứu tướng thuật cho rằng nếu như hình mạo đã có thể tỏ rõ
quý tiện cát hung thì những vật phẩm gần gũi với con người cũng có thể tỏ rõ thị
hiếu, tính tình của con người và đương nhiên cũng có thể căn cứ vào những vật đó
để dự đoán cát hung.
Ngoài việc liên tưởng từ hình mạo, sự ra đời của môn vật tướng còn có liên hệ
mật thiết với tục « vật chiêm » của người thời cổ. « Vật chiêm » là thông qua
cảnh vật tự nhiên để dự đoán cát hung. Tục này đã được ứng dụng rộng rãi trong
dân gian trong mọi thời kỳ lịch sử ở Trung Quốc. Vào thời Hán đã có thuật xem
tướng gió, căn cứ vào hướng gió, sức gió và thời gian gió thổi để đoán cát hung.
« Thái Bình ngự lãm » quyển 9 đã trích ghi bài « Tướng phong phú » của Trịnh
Huyền và bài « Tướng phong phú » của Trương Hoa, tức là coi gió cũng có điềm
lành và điềm gở. « Thái Bình ngự lãm » quyển 872, mục điềm lành có nói : « Phù
Thụy đồ » nói : Tướng phong là gió tốt, còn gọi là cảnh phong. Mùa Xuân thì phát
sinh, mùa Hạ thì mạnh đủ (tưởng doanh), mùa Thu thì Thu tàng, mùa Đông thì an
ninh ». Phần điềm gở dẫn Sử ký : « Cuối đời Ân Trụ, gió lớn thổi xiên bò ngựa,
làm đổ nhà bật cây, tràn lan mấy chục dặm. Chu bèn diệt Ân ». Theo nhìn nhận của
người xưa thì gió, núi sông... mọi vật tự nhiên đều hàm chứa điềm lành điềm gở,
chỉ có điều chưa được người ta hiểu mà thôi. Con người với tư cách là vạn vật
chi linh, sống trong thế giới vật chất này, đem những điềm lành, gở của các sự
vật, hiện tượng liên quan đến con người gán vào cho con người, đó là thành quả
tư tưởng của các Vật tướng gia.
Vật tướng còn phân loại các vật phẩm khác nhau để xem tướng như xem tướng Ấn,
xem tướng Chữ, xem tướng Tên, xem tướng Hốt...
Phép xem tướng Ấn là phương pháp căn cứ vào quả ấn và những chữ triện khắc trên
ấn chương để đoán cát hung họa phúc. Người đầu tiên đề ra phép xem tướng này,
hiện nay chưa có kết luận nhất trí. « Thái Bình ngự lãm » quyển 683 dẫn « Tướng
ấn thư » : « Phép xem tướng Ấn, vốn do Trần Trường Văn đề ra... đoán cát hung
đúng tới 8, 9 phần. Trọng Tướng hỏi Trường Văn học phép này ở ai, Trường Văn trả
lời : « gốc từ thời Hán », lại dẫn « Tướng Ấn kinh » : « Ấn có 8 góc hoặc 12 góc.
Ấn cần phải vuông vắn, trên ổn dưới phẳng, sáng láng sạch sẽ, như vậy thì đều
lành ». Về những trước thuật về phép xem tướng ấn, ngoài hai cuốn « Tướng ấn thư
» và Tướng ấn kinh » mà « Thái Bình ngự lãm » dẫn ra, « Tùy thư – Kinh Tịch chí
» có ghi chép : « Tướng bản ấn pháp chỉ lược sao của Vĩ Thị và « Trình Thâu Bá
tướng ấn pháp » mỗi cuốn gồm một quyển, nhưng đều đã thất lạc.
Phép xem tướng Chữ, còn gọi là « chiết tự », trắc tự ». Phương pháp này chia chữ
ra các bộ phận rồi ghép vào chuyện nhân sự để đoán cát hung. Sách « Hữu Đài tiên
quán bút ký » thời Thanh viết : « Thuật chiết tự, xưa gọi là xem tướng chữ, thời
Tống có Tạ Thạch (xem Hà Cư « Xuân chư kỷ văn », thời Minh có Trương Thừa Tra (xem
« Lưu Tích phi tuyết lục »). Phương pháp xem tướng là tùy ý nêu ra một chữ, rồi
suy diễn sự liên quan mà đoán cát hung. Bí quyết của phép xem tướng chữ có lẽ là
ở chỗ suy diễn sự liên quan mà đoán cát hung. Với thầy tướng đoán chữ, đó là
việc sau khi phân tích chữ, suy đoán ra sự cát hung của khách xem tướng. Những
thầy tướng giỏi xem tướng chữ có nhiều, trong đó, nổi tiếng hơn cả là Tạ Thạch,
Chu Sinh đời Tống, Trương Thừa Tra thời Minh, Phạm Hành thời Thanh.
« Tạ Thạch (Nhuận Phu) là người Thành Đô. Khoảng năm Tuyên Hòa, đến kinh sư,
dùng phép xem tướng chữ để nói họa phúc của người. Người cần xem tướng chỉ cần
tùy ý viết ra một chữ, ông sẽ phân tích chữ đó để nói, không lần nào là không
nói đúng một cách kỳ lạ. Danh tiếng động đến Cửu trùng (nhà vua), Thượng hoàng
liền viết một chữ « Triều », sai Trung Quý nhân đem tới cho Tạ Thạch xem. Tạ
Thạch nhìn chữ, rồi ngắm Trung Quý nhân và nói : « đây không phải là chữ của
nương nương, song cái nghề mọn của Tạ Thạch này, căn cứ vào chữ mà nói thì hôm
nay chịu ơn tao ngộ là ở chữ này. Chữ « Triều », phân tích ra là 4 chữ thập
nguyệt thập nhật (mùng 10 tháng 10), nếu không phải là bậc người trời sinh vào
ngày tháng này (tức Thượng Hoàng Tống Triết Tông) thì còn ai viết vào đây nữa ?
». Mọi người có mặt cả kinh, Trung Quý nhân trở về tâu lên. Ngày hôm sau, Tạ
Thạch được triệu vào hậu uyển, vua lệnh cho tả hữu và cung phi viết chữ đưa cho
Tạ Thạch xem, ông nói đều rất chính xác. Hoàng đế ban thưởng rất hậu và phong
làm Thừa Tín lang. Từ đó, bốn phương tìm đến xem tướng, ngoài cửa lúc nào cũng
đông như chợ ».
Lại căn cứ vào sách « Lưu Tích phi tuyết lục » nói : Gần đây, những người chiết
tự để đoán cát hung, không ai bằng Trương Thừa Tra, ông căn cứ vào chữ, vẽ thành
quẻ rồi nói chứ không cần làm gì khác. Đầu niên hiệu Hồng Vũ, có hai ông tham
tri chính sự là Lưu công và Vương công đến Triết Giang, đổi Củng Bắc Lâu thành
Lai Viễn, rồi yết bảng lên. Thừa Tra đến xem rồi nói : « Nội ba ngày sẽ có việc
tang ». Quả nhiên, ba ngày sau, mẹ của Vương công ốm chết. Vương công hỏi nguyên
do, Thừa Tra nói : Chữ « lai » có hình chữ « tang », chữ « viễn » có hình chữ «
ai », hai dấu chấm bên cạnh là « lệ điểm » (dấu nước mắt) vậy ! Vương công nhờ
Thừa Tra đổi chữ khác, liền đổi thành Trấn Hải Lâu.
Tóm lại, xét về tính chất, loại vật tướng này mang nhiều tính chất bói toán, so
với tướng thuật chân chính (tức hình tướng), có khoảng cách rất xa.
Tìm
hiểu nhân tướng học theo Kinh Dịch
Quan hệ liên đới giữa hình, thần, giọng nói và khí sắc
Các nhà nhân tướng học từng cho rằng: “Mệnh lý là 1 thuật toán, còn tướng lý
là cả 1 nghệ thuật” vì tướng lý rất chú trọng đến sự "phối hợp quan sát" và
"cộng trừ nhân chia". Khi xem tướng cho một ai đó, ngoài việc phải quan sát
thật kỹ mặt mũi, hình dáng bề ngoài, chúng ta còn phải phối hợp quan sát
tinh thần, khí sắc và cả giọng nói của người đó nữa.
Xét về đại thể, hình thể là yếu tố mấu chốt, ảnh hưởng đến sự vinh hoa phú
quý trong suốt cuộc đời, còn tinh thần lại là yếu tố mấu chốt ảnh hưởng đến
tài hoa, trí tuệ và tuổi thọ; giọng nói là yếu tố mấu chốt ảnh hưởng đến sức
khỏe, sự nghiệp cũng như cho thấy Lục thân có được hoàn mỹ hay không; khí
sắc là yếu tố mấu chốt ảnh hưởng đến cát hung, họa phúc cũng như thời cơ tốt
đẹp có thể thay đổi cả cuộc đời. Quan hệ liên đới về điềm tốt và điềm xấu
giữa hình, thần, giọng nói và khí sắc được trình bày cụ thể như sau:
1. Người thừa hình nhưng thiếu thần: Tuy sự nghiệp có được những bước
tiến nhỏ nhưng họ lại đoản thọ; hoặc nếu được sống thọ thì cũng mang bệnh
tật đầy mình; hoặc sẽ gặp nhiều khó khăn trong sự nghiệp, dẫn đến phá sản,
không thể gượng dậy nổi.
2. Người thừa hình nhưng thiếu khí sắc: Tuy có tài trí và lòng nhẫn
nại nhưng họ lại không biết nắm bắt thời cơ nên con đường sự nghiệp sẽ khó
phát triển được; hoặc có gặt hái được thành công nhưng thất bại cũng không
kém, khó trở nên giàu có, phong lưu.
3. Người thừa hình nhưng giọng nói không đủ: Chủ nhân phải chịu đựng
nhiều sự bó buộc trong cuộc sống, mọi danh lợi đều là hão huyền, vô thực,
khó thâu tóm được hoàn toàn; hoặc sẽ phải lao động vất vả cả đời nhưng lại
chỉ thu nhận được rất ít thành quả tốt đẹp.
4. Người thừa thần nhưng thiếu hình: Có cuộc sống giàu sang phú quý,
trường thọ, sự nghiệp có bước phát triển vượt trội. Tuy nhiên, chủ nhân cũng
phải lao tâm khổ tứ, luôn trăn trở với những suy nghĩ quẩn quanh mà ít khi
được thanh thản, nhẹ nhàng.
5. Người thừa thần nhưng khí sắc không đủ: Có trí tuệ, tài hoa nhưng
cuộc sống lại khá bôn ba, vất vả. Họ cũng có được chút ít thành công trong
sự nghiệp, tuổi thọ cao. Tuy nhiên, họ thường có những hành vi không đẹp,
hay xu nịnh, luồn cúi.
6. Người thừa thần nhưng giọng nói không đủ: Gặp nhiều thành công nhưng
cũng không ít thất bại trong sự nghiệp, chỉ giàu có ở mức vừa phải. Tuy
nhiên, tính tình lại không mấy lương thiện, hoang dâm vô độ, có thể mắc bệnh
hiểm nghèo dẫn đến tiêu tốn của cải đã tích lũy được.
7. Người thừa khí sắc nhưng thiếu hình: Sự nghiệp có thể tạm thời
phát triển khiến họ trở nên giàu có nhưng không duy trì được trong thời gian
dài. Vì khí sắc rất tốt nên họ hoàn toàn có khả năng gặp được may mắn bất
ngờ trong những khi hoạn nạn, khó khăn nhất.
8. Người thừa khí sắc nhưng thiếu thần: Gặp được rất nhiều thời cơ
thuận lợi, được nhiều người giúp đỡ trong sự nghiệp nên cuộc sống sẽ tương
đối giàu sang, sung túc. Tuy nhiên, chủ nhân thường phải đối mặt với bệnh
tật, tuổi thọ không cao và hay đột tử vào đúng lúc đang ở đỉnh cao của sự
nghiệp.
Mười Bước Xem Tướng
trong
"Thần tướng toàn biên"
Coi tướng đàn ông hay đàn bà đều
phải có trình tự. Sách
"Thần tướng toàn biên" gọi là Thập
quan (mười bước xem) và biết như sau:
(Chú ý mục này nói thiên về nam
tướng nhiều hơn)
1 - Coi vẻ uy nghi như hổ hạ sơn -
bách thú sợ hãi, như chim ưng bay
trên trời - cáo thỏ đều kinh. Không
dữ tợn mà có uy. Uy nghi là nhờ đôi
mắt, lưỡng quyền và thần khí.
2 - Coi dáng và tinh thần,
thân như chiếc thuyền chở vạn hộc
thóc, cưỡi sóng to tuy bập bềnh mà
không lay chuyển. Lúc ngồi, lúc nằm,
lức đứng, lúc đi, thần khí linh hoạt,
thanh khiết. Ngồi lâu không mê muội,
càng ngồi lâu tinh thần càng sảng
khoái như mặt trời mọc ở phương Đông
ánh sáng chan hoà vào mắt người, như
vầng trăng thu vằng vặc. Diệu thần,
nhãn thần như mặt trời mặt trăng
sáng lạn, tự nhiên khả ái. Nhìn lâu
không mờ. Có những tướng trên không
đại quý cũng tiểu quý, chẳng giàu tỷ
phú thì cũng bậc triệu phú!
3 - Coi đầu tròn, đỉnh dầu trán cao
vì đầu là chủ toàn thân, nguồn gốc
của tứ chi. Đầu vuông, đỉnh đầu cao
là người ở ngôi vị cao tới bậc vua
chúa. Trán vuông, đỉnh đầu cao khởi
là phụ tá lương thần. Đầu tròn thì
giàu có và thọ. Trán rộng thì sang
quý. Đầu lệch từ nhỏ truân chuyên.
Trán vát thiếu niên hư hao. Trán
thấp thì hình khắc và bướng bỉnh.
4 - Thẩm định sự thanh trọc: Thanh
hay trọc phải đúng mức, vì Thanh đi
quá đà sẽ trở thành hàn. Trọc đi quá
đà sẽ trở thành thô và chỉ khi nào
có hàn và thô mới coi là xấu. Nếu
trong một cá nhân có cả Thanh lẫn
Trọc, ta phải tìm xem đó là cách
Thanh trung hữu Trọc hay cách Trọc
trung hữu Thanh.
5 - Coi Ngũ nhạc Tam đình
A) NGŨ NHẠC:
Quyền bên trái là Đông nhạc cần ngay
ngắn không thô lộ. Trán là Nam nhạc
cần ngay ngắn, không vát, không hãm,
không thấp, không thiên tà. Quyền
bên phải là Tây nhạc nên đầy đặn,
vuông vấnhy tròn trịa, không nên
nhọn, lệch, lẹm. Mũi là Trung nhạc
nên ngay ngắn, sống mũi trực thượng
ấn đường không được vẹo, nhọn, gầy,
khúc. Sách tướng viết:
"Ngũ nhạc câu triều quý áp triều
ban"
(5 nhạc chầu vàp nhau, chức vị đến
bậc tể tướng)
Chú ý: Lấy mũi làm chuẩn cho sự chầu.
"Ngũ nhạc thành toàn thì tiền tài tự
vượng"
B) TAM ĐÌNH:
Gồm có trán, đầu và cằm (xem ở trên)
đòi hỏi dài ngắn cân xứng.
Sách tướng viết:
"Thượng đình trường thiếu niên mang"
(tuổi trẻ vất vả)
"Trung đình trường phúc lộc sương" (có
phúc lộc)
"Hạ đình trường lão cát tướng" (tuổi
già hưởng thụ)
Nếu tam đình không bình đẳng thì cứ
căn cứ ba câu phú đoán trên mà xét.
6 - Coi Ngũ quan, Lục phủ:
A) NGŨ QUAN:
+ Mi (lông mày) là Bảo thọ quan nên
thanh cao sơ tú, cong dài, cách mắt
hai phân là tốt. Đuôi mày nên chếch
lên phía thái dương gọi là "mi phất
thiên sương" (coi ảnh Chu Ân Lai
thấy rõ). Người nào có bộ lông mày
thô đậm, vàng lợt tán laọn, áp xuống
mắt thì thuộc tướng hình hại.
+ Mắt là Giám sát quan nên đen trắng
rõ ràng (phượng nhãn, tương nhãn,
long hổ nhãn, hầu nhãn...). Mắt nên
có tinh thần ẩn bên trong chớ lộ ra
ngoài, trông thấy vẻ tự nhiên thanh
tú hoặc tự nhiên có uy lực. Nếu là
mắt rắn, mắt ong, mắt heo thường lộ
4 phía lòng trắng (tứ bạch), hoặc có
xích mạch (sợi đỏ) đâm ngang con
ngươi, trắng đen lẫn lộn, hoặc thần
quang quá lộ, hoặc hôn muội là tướng
hung, bại ngu tướng.
+ Tai là Thám thính quan không cứ to
nhỏ, chỉ cần luân quách (vành tai
ngoài và vành tai trong) phân minh.
Tai trắng hơn mặt cực tốt! Thuỷ nhĩ
(tai mọng như nước); Thổ nhĩ (tai
lớn và dầy); Viên kỳ nhĩ (tai tròn
như quân cờ); Điếm não nhĩ (tai áp
sát vào đầu, đối diện không thấy);
tai cao hơn lông mày, sắc tai hồng
nhuận, lỗ tai nhỏ đầu là loại tai
tốt tướng. Loại tai chuột mỏng vểnh;
tai đuôi tên (nhọn vát); mộc nhĩ (lăn
quăn); luân quách phản - đều là
tướng xấu!
+ Mũi là Thẩm biện quan nên đầy nở,
thẳng cao. Những loại mũi tốt là:
Long hổ tị, tài đồng tị (như ống
trúc chẻ), thịnh nang tị (mũi như
túi đầy); huyền đởm tị (mũi như trái
mật treo). Mũi phải đoan chính không
vẹo, không thô, không nhỏ mới hay.
Những loại mũi xấu là: mũi chó, mũi
chim ưng, mũi nhọn như mũi dao, mũi
chia khúc, lỗ mũi lộ, mũi hếch, mũi
có sống mũi cao lộ cốt gọi là "cô
phong tị". Ai có những mũi xấu kể
trên đều là bần, khổ, ác, tham, làm
cái gì cũng hỏng.
+ Miệng là Xuất nạp quan. Miệng tốt
tướng là miệng có đôi môi hồng, răng
trắng, nhân trung sâu dài, hình dáng
như trăng treo hay là vòng cung.
Miệng chữ tứ, miệng vuông to như
miệng hùm, miệng hình dáng tựa con
thuyền bị lật úp, miệng cá ngão, môi
ngắn răng lộ, môi đen, môi mỏng
miệng thô đều là tướng xấu. Miệng
xấu tất bị mười năm khốn khổ!
B) LỤC PHỦ:
Lục phủ là gì? Lục phủ là những bộ
vị chia ra chi tiết trên trán, lưỡng
quyền và cằm. Cụ thể thế nào xin mời
đọc sách khác, đoạn này bị thiếu,
mong các bác thông cảm! Hihihi
7 - Coi lưng, bụng.
Ngực bằng, đầy, eo tròn, lưng đầy và
bụng dưới to hơn, da dẻ mịn màng là
tốt. Kỵ lưng thành hố sâu, lưng mỏng,
vai so, eo nhỏ (trai thì phải có vai,
gái nên vai xuôi, vai nhỏ). Mông cần
nở nang, bằng bặn, không nên lớn thô.
Bụng nên trễ xuống nghĩa là bụng
dưới to. Nếu khoảng trên lớn, khoảng
dưới thót là bụng chim sẻ, bụng chó
rất xấu.
Sách tướng viết:
"Yêu viên bối hậu phương bảo ngọc
đới triều y"
(Eo tròn, lưng dầy thì ăn lộc của
triều đình)
"Sậu nhiên bất dị khảng khái quá
nhân tất chủ phát đạt phú quý"
(Tính tình khẳng khái, cương nghị
hơn người tất sẽ phát đạt phú quý)
Riêng về tướng đàn ông, nên để ý câu
sau đây:
"Đầu đại vô dốc, phúc đại vô nang
bất thị nông phu, tất thị đổ bác"
(Đầu to mà không có góc cạnh, bụng
lớn mà không có ụ nổi, nếu không
chân lấm tay bùn thì cũng rạc dài cờ
bạc)
Sách tướng viết:
Nam tử eo nhỏ khó lòng có tiền, thêm
yểu triết, ngực ưỡn đít cong thì
chịu trăm ngàn cay đắng. Nữ tử thì
phải chịu phận nô tì.
8 - Coi chân tay.
Tay phải dài, chân phải có bụng chân
chứ đừng có sác như que củi, chớ có
nổi gân chằng chịt. Bàn tay nên
nhiều đường nét lạ, màu sắc hồng
nhuận, da thịt mềm mại.
9 - Coi tiếng nói và tâm trạng.
Sách tướng viết:
"Tâm bất chính tất nhãn gian tà".
Muốn nhìn sự việc trong tâm thì coi
đôi mắt. Mắt hiền mắt ác biết tâm
hiền tâm ác. Mắt nhìn lên thì tâm sự
cao thượng, mắt trông xuống thì tâm
sự băn khoăn. Mắt chuyển động mà
không nói là trong lòng nghi ngờ, lo
lắng. Mắt tà thị là loại người "khẩu
phật tâm xà", ích kỷ hại nhân. Mắt
nhìn thẳng thắn là người trung chính.
Mắt ác tâm tất ác, mắt hiền tâm tất
từ. Ai dư dả tiền bạc, lòng quảng
đại vui sướng đều thấy hiện sắc chôn
vàng đỏ ở nơi ngoạ tàm (dưới mắt) và
ấn đường. Đàn ông tiếng nói như sấm
sét, như chiêng đồng, như tiếng vang
trong chum, tiếng dài có âm hưởng
thì dù tướng mạo không đẹp lắm cũng
có thể phú quý. Người nhỏ tiếng lớn,
người lớn tiếng oai vệ, thanh âm
xuất tự đan điền đều được hưởng phúc
lộc lâu dài. Kẻ bần tiện yểu chiết
tiếng nói líu ríu, nhẹ bấc, hoặc tán
mạn (không tiếp nối đều đặn) hoặc
như thanh la vỡ, trống thủng, tiếng
khô khan khó nghe.
Sách tướng