|
|
Những Điều Nên Biết
Về Nhân Quyền |
Hỏi: Trước khi tìm hiểu về Nhân Quyền, xin định nghĩa vắn tắt Nhân
Quyền là gì?
Đáp: Nhân Quyền hay quyền làm người là những
quyền phổ quát mà mọi người từ lúc mới sinh ra đã được Tạo Hóa ban cho, không
phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay giới tính nam,
nữ. Đó là những quyền Tự Do căn bản, như tự do sinh sống và mưu cầu hạnh phúc,
tự do đi lại và cư trú, tự do sở hữu tài sản, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự
do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do sinh hoạt
chính trị và tự do ứng cử, bầu cử. Những quyền đó không do nhà nước hay bất cứ
cá nhân, tổ chức nào ban cho.
Vì thế, bất cứ nơi nào Nhân Quyền bị chà đạp, dân chúng phải tự mình đứng lên
tranh đấu để đòi lại những Nhân Quyền căn bản của mình.
Hỏi: Nhân Quyền và Dân Quyền khác nhau ở chỗ nào?
Đáp: Nhân Quyền là những quyền làm người căn bản và phổ quát đã
được các quốc gia hội viên của LHQ công nhận và đề cao. Trong khi đó, Dân Quyền
là những quyền công dân của một nước, được quy định bởi hiến pháp và luật lệ của
quốc gia. Vì thế dân quyền của các nước không nhất thiết phải giống nhau.
Hỏi: Xin đơn cử một ví dụ cho thấy sự khác biệt giữa Nhân Quyền và
Dân Quyền.
Đáp: Với tư cách công dân, mọi người đã trưởng thành đều có quyền
tham gia bầu cử và ứng cử. Nhưng tùy theo luật lệ của mỗi quốc gia, muốn tham
gia bầu cử, người dân phải hội đủ một số điều kiện, ví dụ phải từ 18 hay 21 tuổi
trở lên, đã cư trú tại địa chỉ hiện tại ít nhất là 3 hay 6 tháng, v.v. Đó là Dân
Quyền.
Trái lại, bất cứ ai dù trẻ hay già, nam hay nữ, sinh sống tại bất cứ nước nào,
dù là công
dân hay chỉ là thường trú nhân cũng đều được hưởng những Nhân Quyền căn bản như
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do tham gia
hay thành lập nghiệp đoàn, v.v. Không ai có quyền tước đoạt Nhân Quyền của dân
chúng.
Hỏi: Nói như thế, Nhân Quyền phải được tôn trọng một cách bình
đẵng hay sao?
Đáp: Đúng vậy. Ngay cả những người tội phạm cũng có những Nhân
Quyền của họ, vì thế họ phải được tòa án xét xử vô tư, công bằng và không bị đối
xử vô nhân đạo như tra tấn và hành hạ dã man.
Hỏi: Có một số người cho rằng Nhân Quyền tại các quốc gia không
nhất thiết phải giống nhau vì mỗi nước có văn hóa và hoàn cảnh khác nhau. Lập
luận đó có đúng không?
Đáp: Đó chỉ là lập luận của một số chính khách và nhà nước độc tài
chỉ ngụy biện để bào chữa cho những hành động vi phạm nhân quyền của họ. Thật
vậy, tính phổ quát của Nhân Quyền đã được minh xác trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền và đã được tái khẳng định trong bản Tuyên Bố do LHQ đưa ra tại Hội
Nghị Quốc Tế về Nhân Quyền tại Vienna, Áo quốc năm 1993.
Theo đó, bản chất phổ quát của các quyền con người và quyền tự do là không thể
bàn cải. Tất cả các quyền con người đều phổ quát, không thể tách rời, chúng phụ
thuộc và liên quan với nhau.
Hỏi: LHQ đã ra đời từ năm nào và với mục đích gì?
Đáp: Vào đầu năm 1945, trước khi đệ nhị thế chiến kết thúc, 50
quốc gia đã tổ chức một Hội Nghị Quốc Tế tại San Francisco, Hoa Kỳ để ký kết
Hiến Chương thành lập LHQ nhằm mục đích duy trì hòa bình và tránh đại họa của
một cuộc đại chiền thế giới lần thứ ba mà bom nguyên tử có thể tiêu diệt loài
người trên địa cầu nầy.
Hỏi: Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được ra đời từ khi nào?
Đáp: Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được Đại Hội Đồng LHQ thông qua
ngày 10-12-1948 tại Paris, thủ đô nước Pháp, với 48 phiếu thuận, 6 phiếu trắng
và không có phiếu chống.
Sự ra đời của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đánh dấu một bước tiến vô cùng lớn
lao
và quan trọng của cộng đồng nhân loại văn minh.
Hỏi: Những ai là tác giả đã biên soạn bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền?
Đáp: Đó là một công trình tập thể của Ủy Hội
Nhân Quyền gồm đại diện của 53 quốc gia hội viên của LHQ, gồm các chính khách,
luật gia, giáo sư và những nhà tranh đấu Dân Chủ từ nhiều quốc gia u Châu, Phi
Châu, Á Châu, Úc Châu và Mỹ Châu.
Hỏi: Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Luật Quốc Tế Nhân Quyền khác
nhau ở những điểm nào?
Đáp: Tuyên Ngôn là một văn kiện nói lên lý tưởng đề cao Nhân Quyền
của Liên Hiệp Quốc. Đó không phải là một Hiệp Ước hay Công Ước, và vì thế, nó
không có hiệu lực pháp lý.
Trong khi đó, Luật Quốc Tế Nhân Quyền bao gồm ba văn kiện: Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền, Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị và Công Ước Quốc Tế về
Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa.
Mọi quốc gia thành viên của LHQ đều chấp nhận bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
và xem đó là lý tưởng chung của mọi quốc gia, nhưng nước nào muốn gia nhập các
Công
Ước Quốc Tế về Nhân Quyền, phải được Quốc Hội của nước đó phê chuẩn mới có hiệu
lực. Ngoài ra, Luật Quốc Tế Nhân Quyền có giá trị cưỡng hành và cao hơn giá trị
của Hiến Pháp và Luật Pháp quốc gia.
Hỏi: Hai Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyền đã được thành lập từ năm
nào?
Đáp: Hai Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyền đã được thông qua từ năm
1966, nhưng đến 10 năm sau hai Công Ước nầy mới được đa số các quốc gia hội viên
LHQ phê chuẩn. Vì thế, đến năm 1976 mới được LHQ chính thức công bố.
Hỏi: Quyền Dân Sự và Chính Trị bao gồm những quyền gì?
Đáp: Theo Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị, nhà nước
có nghĩa vụ bảo vệ các quyền sau đây của người dân:
Quyền sống, quyền tự do và an toàn thân thể;
Không bị làm tôi đòi hay nô lệ;
Không bị trừng phạt vô nhân đạo, hay bị lăng nhục;
Không bị bắt bớ hay giam cầm tùy tiện;
Quyền được xét xử trước một tòa án vô tư, công hằng và có luật sư biện hộ;
Không bị xâm phạm tùy tiện danh dự cá nhân, đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở
hay thư tín;
Quyền tự do cư trú và đi lại trong quốc gia của mình;
Quyền được xuất ngoại và hồi hương;
Quyền tị nạn tại các quốc gia khác;
Quyền sở hữu tài sản;
Quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo;
Quyền tư do ngôn luận, tự do tìm kiếm, tiếp nhận tin tức bất kỳ nơi nào và phổ
biến tin tức bằng mọi phương tiện truyền thông, không giới hạn lãnh thổ;
Quyền tự do hội họp có tính cách hòa bình;
Quyền tham dự vào việc điều hành chính quyền trực tiếp bằng cách ra ứng cử, hay
gián tiếp bằng cách bầu lên người đại diện cho mình trong những cuộc bầu cử bằng
phiếu kín, dân chủ và công bằng.
Hỏi: Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa bao gồm những quyền gì?
Đáp: Theo Công Ước Quốc Tế về Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa,
nhà nước có
nghĩa vụ thường xuyên cố gắng cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt là
những quyền sau đây:
Quyền có việc làm và lựa chọn việc làm;
Quyền được hưởng mức lương xứng đáng và công bằng; có điều kiện làm việc an toàn,
được huấn luyện và có cơ hội thăng tiến;
Quyền thành lập nghiệp đoàn và tham gia nghiệp đoàn;
Quyền được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm sức khỏe;
Quyền được hưởng giáo dục. Đặc biệt giáo dục bậc tiểu học phải có tính cách
cưỡng bách và miễn phí. Giáo dục bậc trung học phải được phổ thông và tiến dần
đến hoàn toàn miễn phí;
Được bảo vệ những quyền lợi tinh thần và tài chánh do những phát minh khoa học
hay sàn phẩm văn hóa và mỹ thuật của mình mang lại.
Hỏi: Việt Nam đã gia nhập LHQ từ năm nào? Và đến khi nào Quốc Hội
VN phê chuẩn hai Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyền?
Đáp: Việt Nam gia nhập LHQ năm 1977 và phê chuẩn hai Công Ước Quốc
Tế về Nhân Quyền năm 1982.
Hỏi: Những Nhân Quyền đã được ghi trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền và hai Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền là những quyền gì?
Đáp: Theo Luật Sư Nguyễn Hữu Thống, Cố Vấn của Mạng Lưới Nhân
Quyền Việt Nam, để cho dễ nhớ, Nhân Quyền có thể được xếp thành ba bậc như sau:
Nhân Quyền bậc 1, mệnh danh là Tự Do Thân Thể, gồm những quyền liên quan đến
thân thể con người, như quyền sống, quyền không bị hành hạ, tra tấn, quyền không
bị nô dịch, quyền an toàn thân thể, không bị bắt giữ và giam cầm trái phép.
Khi bị truy tố, phải được xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập và vô tư.
Nhân Quyền bậc 2, mệnh danh là Quyền An Cư và Lạc Nghiệp.
Quyền An Cư gồm có: tự do cư trú và đi lại; tự do xuất ngoại và hồi hương;
quyền riêng tư cho bản thân, gia đình, nhà ở, thư tín; quyền tị nạn; quyền sở
hữu, v.v.
Quyền Lạc Nghiệp gồm có: quyền có việc làm với tiền lương xứng đáng và công bằng;
quyền được bảo hiểm và an sinh xã hội; có đời sống khả quan cho bản thân và gia
đình và quyền được hưởng những phúc lợi về y tế, giáo dục và văn hóa.
Nhân Quyền bậc 3, mệnh danh là Tự Do Tinh Thần và Tự Do Chính Trị. Đó là tự do
tín ngưỡng, tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do
lập hội và tự do hoạt động nghiệp đoàn.
Hỏi: Có người cho rằng đòi hỏi Nhân Quyền và tranh đấu Dân Chủ đều
có mục tiêu tối hậu là đem lại Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho mọi người. Như
thế đòi hỏi Nhân Quyền và tranh đấu Dân Chủ khác nhau ở chỗ nào?
Đáp: Như chúng ta đã thấy, các điểu khoản 18, 19, 20 và 21 của bản
Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền cũng như các điều khoản 18, 19, 20 và 21 trong Công Ước Quốc Tế về
Quyền Dân Sự và Chính Trị đều ghi rõ các quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng,
tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do sinh hoạt nghiệp đoàn và
đảng phái chính trị, và tự do ứng cử, bầu cử. Như thế, trong Nhân Quyền đương
nhiên có Dân Chủ.
Tại các nước độc tài, Nhân Quyền của người dân thường bị chà đạp, không có tự do
báo chí, tự do tư tưởng, tự do hội họp và tự do lập hội, v.v. Vì thế, tại các
quốc gia đó, dân chúng phải đứng lên tranh đấu đòi hỏi nhà nước thực thi Dân Chủ,
vì phải có Dân Chủ mới có Nhân Quyền.
Hỏi: LHQ đã ban hành Luật Quốc Tế Nhân Quyền từ năm 1976, nhưng
cho đến nay, tại một số quốc gia, Nhân Quyền vẫn còn bị chà đạp nặng nề, nguyên
nhân vì sao?
Đáp: Năm 1998, nhân dịp Kỷ Niệm 50 năm ngày công bố Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền, LHQ đã duyệt xét tình hình Nhân Quyền trên thế giới, LHQ đã
thấy rằng trong nửa thế kỷ qua tình trạng Nhân Quyền hầu hết khắp nơi đã được
cải tiến đáng kể, nhưng tại một số quốc gia Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ, Nhân
Quyền vẫn chưa được tôn trọng và dân chúng chưa biết rõ tầm quan trọng của Nhân
Quyền vì hai lý do chính yếu sau đây:
Thứ nhất, đa số dân chúng vẫn còn xa lạ với Nhân Quyền, và chưa được học hỏi về
Nhân Quyền và Luật Quốc Tế Nhân Quyền của LHQ;
Thứ hai, nhà cầm quyền tại các nước độc tài đã không giúp đỡ mà lại còn ngăn cấm
mọi nỗ lực quảng bá và giáo dục dân chúng am hiểu về Nhân Quyền.
Chính vì thế, ngày 8-3-1999 Đại Hội Đồng LHQ đã thông qua Nghị Quyết 53/144, tức
Tuyên Ngôn về Những Quyền và Trách Nhiệm của các Cá Nhân, Hội Đoàn và Cơ Quan
trong xã hội phải cổ võ và bảo vệ Nhân Quyền theo đúng Luật Quốc Tế Nhân Quyền.
Hỏi: Theo Nghị Quyết 53/144 của LHQ, mọi cá nhân và tổ chức ngoài
Chính Phủ (NGO) có những Quyền và Nghĩa Vụ gì?
Đáp: Theo Nghị Quyết đó, sau đây là 5 Quyền và Nghĩa Vụ chính yếu
của các Cá Nhân và Tổ Chức Xã Hội Dân Sự:
Quyền đề xướng và đòi hỏi Nhà Nước thực thi Nhân Quyền;
Quyền hội họp, thành lập và tham dự các tổ chức ngoài chính phủ (NGO);
Quyền được tham chính trực tiếp hay gián tiếp và quyền nầy bao gồm cả quyền đề
nghị, phê phán và chỉ trích các việc làm của Chính Phủ;
Cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ có Nghĩa Vụ tham gia các hoạt động giáo dục,
huấn luyện và nghiên cứu về Nhân Quyền để nâng cao dân trí đồng bào;
Cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ có Nghĩa Vụ và Trách Nhiệm góp phần phát huy
các tổ chức xã hội dân sự và các định chế dân chủ để xây dựng đất nước ngày càng
tiến bộ và tốt đẹp hơn.
Hỏi: Theo Nghị Quyết 53/144 của LHQ, Chính Phủ có những Trách
Nhiệm gì?
Đáp: Theo Nghị Quyết đó, Chính Phủ có 5 Trách Nhiệm chính yếu sau
đây:
Quảng bá và bảo vệ Nhân Quyền và những Quyền Tự Do căn bản của dân chúng bằng
cách tạo các điều kiện thiết yếu về giáo dục, xã hội, kinh tế, luật pháp và
chính trị theo đúng Luật Quốc Tế Nhân Quyền;
Ban hành các văn kiện lập pháp và lập quy để bảo đảm Nhân Quyền và những
Quyền Tự Do căn bản của người dân;
San định Hiến Pháp và luật lệ quốc gia thế nào cho phù hợp với Hiến Chương của
LHQ và Luật Quốc Tế Nhân Quyền;
Hỗ trợ và khởi xướng các nỗ lực bảo vệ Nhân Quyền như việc thành lập các Ủy Ban
Nhân Quyền và Ủy Ban Điều Tra các viên chức vi phạm Nhân Quyền, v.v.
Tổ chức và yễm trợ các chương trình giảng dạy Nhân Quyền và những Quyền Tự Do
căn bản tại học đường. Đặc biệt Luật Quốc Tế Nhân Quyền phải được giảng dạy
trong các khóa huấn luyện luật sư, biện lý và lực lượng công an, cảnh sát để
giúp họ thi hành nghiệp vụ một cách tốt đẹp và không vi phạm Nhân Quyền của
người dân.
Theo Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam
|