Giáo Sư Stephen Young trả lời phỏng vấn tại tòa soạn nhật báo Người Việt. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
Hà Giang (NV): Kính chào Giáo Sư Stephen Young, được biết trong thời gian gần 30 Tháng Tư năm 1975, giáo sư
là một trong những người đóng vai trò quan trọng trong việc vận động chính quyền Mỹ đón nhận người tị nạn Việt
Nam. Ông có thể kể lại câu chuyện hầu như rất ít người biết này?
GS Stephen Young: Tôi không phải là một chuyên viên về luật di trú nhưng đại khái theo tôi nhớ trước năm
1980, Hoa Kỳ không có một quy chế về người tị nạn gì hết. Thỉnh thoảng vì nhu cầu chính trị hay vì nhu cầu ngoại
giao, thì chính phủ cho phép một số người của một nước nhập vào nước Mỹ nhưng họ không có Visa, vì luật của
nước Mỹ là không có Visa cho người di cư trước năm 1980. Lúc đó thì họ gọi là Parole Authority, là một cái phép
đặc biệt là bên Bộ Tư Pháp phải thương lượng với Quốc Hội, thì họ định là sẽ cho vào bao nhiêu người không có
Visa. Theo tôi nhớ thì sau Thế Chiến Thứ Hai thì Mỹ đón một số người Ðông Âu, Do Thái, bị Hitler muốn tiêu diệt,
sau đó có một nhóm người Hungary, hình như là ba mươi mấy ngàn người thôi, sau đó nữa thì có người Cuba đến
sau khi Castro lên, áp dụng chế độ Cộng Sản ở nước họ, những người Cuba họ lấy tầu thủy họ trốn qua Florida.
Ðến năm 1975, thì thoạt đầu chính phủ Mỹ không có luật nào để đón người di cư từ Việt Nam, và như thế trên
nguyên tắc, trừ những người được cấp Visa, Mỹ không nhận người di cư nào hết sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.
NV: Vào khoảng cuối Tháng Năm, 1975, Quốc Hội cho ra đời một đạo luật gọi là “Indochina Immigration and
Refugees Act,” thì vai trò của giáo sư trong việc dự luật này ra đời, và được Tổng Thống Ford phê chuẩn là gì?
GS Stephen Young: Theo tôi nhớ thì việc cho người Việt vào Mỹ đã được quyết định cuối Tháng Tư rồi, 30
Tháng Tư thì đã có phép rồi, nhưng hồi đó có hai trại lớn là Fort Chaffee ở Florida và Indiantown Gap ở
Pennsylvania, thì phải có một chương trình nào đó có người giúp họ mua thức ăn, lo cho họ lúc ban đầu. Chế độ
bảo trợ qua những tiểu bang, chính phủ cần một đạo luật để chi tiền. Chính phủ Mỹ không thể chi tiền nếu không có
Quốc Hội chấp thuận.
Không ai ngờ sẽ mất miền Nam trong vòng một tháng, hình như Ðà Nẵng mất cho Cộng Sản ngày 30 Tháng Ba, nhà
tôi là người Việt, nên tôi rất quan tâm đến tình hình Việt Nam, lúc đó tôi nhớ rõ là một ngày Chủ Nhật, nghe đài phát
thanh thấy mất Ðà Nẵng thì hết hồn, vì tôi biết là mất Ðà Nẵng tức là uy tín của Tướng Ngô Quang Trưởng mất rồi, và
thứ nhì thì ông Thiệu không còn giữ được miền Nam nữa, chỉ có thể hy vọng là ông Trưởng lên thay thế ông Thiệu.
Thành ra ngày Thứ Hai, tôi không đi làm, tôi đi Washington, DC, để nhờ một số người bạn phát động một phong trào
di cư, vì tôi thấy là bây giờ người Mỹ có bổn phận vì danh dự, vì quyền lợi, nhất là vì danh dự một nước Hoa Kỳ tranh
đấu cho tự do và nhân quyền cho thế giới, mà đã có mấy triệu người Việt Nam nhờ vào Mỹ để giúp họ, mà nếu mình
không giúp được họ thì mình cũng không được bỏ quên luôn, vì bỏ quên luôn thì là một hành động hèn quá, không
thể chấp nhận được. Mà tôi biết là cứ để yên thì ông Kissinger và ông Ford sẽ không cứu được người nào, bằng
chứng là Cambodia, chị nhớ mà, nước Mỹ không mang ai ra. Tôi nhớ là vào giờ chót, khoảng 15, 16 Tháng Tư thì khi
ông đại sứ Mỹ rời Phnom Penh đem ra 17 gia đình, còn mấy người Miên kia thì cứ để lại cho bị bắt.
NV: Vâng trở lại vào cái ngày Thứ Hai sau khi ông nghe tin Ðà Nẵng đã mất, lúc đó ông đang làm gì?
GS Stephen Young: Lúc đó tôi khoảng 30 tuổi, đang là luật sư, đang làm việc cho một hãng luật, mới làm việc
được năm đầu tiên, thành ra là tôi đi Washington, DC. Tôi nhớ là mình đến đó mới gọi điện thoại cho một người bạn
là Paker Borg. Parker với tôi học tiếng Việt cùng với nhau một năm trước khi đi qua Việt Nam để cùng làm việc cho
chương trình Bình Ðịnh Phát Triển Nông Thôn, nhưng lúc đó Parker là phụ tá của Ngoại Trưởng Henry Kissinger, thì
tôi nghĩ là tôi phải nói chuyện với Parker, gợi ý cho Parker, rồi Parker nhờ có ảnh hưởng trong Bộ Ngoại Giao xin vận
động cho một chương trình tị nạn Việt Nam. Ông Parker lúc đó nói với tôi rằng: “Xin lỗi tôi không thể giúp được.” Tôi
hỏi: “Tại sao anh lại không giúp?” Parker nói rằng ông đã từ chức Thứ Sáu vừa rồi, vì không thể tiếp tục làm việc với
ông Henry Kissinger, vì “ông ta là người không tốt.”
Parker hơn tôi hai tuổi. Chị phải hiểu là một thanh niên cỡ 32, 33 tuổi, làm việc trong ngành ngoại giao mà lúc đó
được làm phụ tá cho ngoại trưởng là đường công danh rộng mở lắm, nhưng nếu mình từ chức, mà nhất là sếp của
mình là Kissinger nữa, thì coi như là tàn sự nghiệp rồi, bởi vì ông Kissinger sẽ “nhớ đời” cái việc này. Tôi nghe
chuyện vừa thấy phục Parker mà vừa tức. Tôi năn nỉ Parker, nói chúng ta không thể buông xuôi được, ít nhất chúng
ta cũng phải giúp một số gia đình qua, nếu không thì họ sẽ bị giết chết. Bởi vì một người thầy của tôi là Giáo Sư
Nguyễn Ngọc Huy, bị chính Lê Duẫn ra lệnh là phải ám sát ông ấy. Nói tóm lại, tôi nói một hồi thì Parker nói: “Steve,
việc này tốt nhưng khó quá, nhưng chính phủ không làm thì mình làm. Tối nay mình sẽ đi gặp ông Lionel
Rosenblatt.” Lionel Rosenblatt hồi đó cũng làm ở Bộ Ngoại Giao, phụ tá cho phó ngoại trưởng. Thế là tối hôm đó ba
chúng tôi vừa uống rượu vừa tìm cách giúp người Việt Nam.
NV: Rồi sau đó thì làm sao thưa giáo sư?
GS Stephen Young: Sau đó thì Thứ Ba chúng tôi một nhóm thanh niên gặp nhau, toàn những người cùng tuổi,
cùng làm việc ở Việt Nam, toàn ghét Cộng Sản, trong đó có ba người là con rể Việt Nam (có vợ Việt Nam). Có lẽ vì
thế chúng tôi không thể dửng dưng với những gì sẽ xảy ra cho quê hương của vợ. Ngoài ra gia đình của vợ tôi cũng
gặp nhiều khó khăn vì liên hệ với tôi.
Nói tóm lại, nhóm thanh niên chúng tôi, hăng hái nhất là ba người con rể Việt Nam, gồm tôi, Ken Quinn và Al Adams,
viết thư đi khắp nơi nhờ mọi người giúp. Rồi chúng tôi bầu Parker Borger làm người lãnh đạo, vì Parker từ chức rồi,
không có việc làm (cười), nhưng Parker quen biết nhiều, lại dùng điện thoại trong Bộ Ngoại Giao từ phòng làm việc
của Lionel Rosenblatt để liên lạc, vận động. Chúng tôi may mắn được Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy tích cực
tiếp tay vận động hộ, cuối cùng thì chúng tôi có được một “Administrative Action” đồng ý cho phép khoảng 150,000
người, bằng số người Cuba trước đó được nhận vào Mỹ. Và đó là khởi đầu của việc chính quyền Hoa Kỳ cho phép
người Việt Nam được vào nước Mỹ, dẫn đến đạo luật gọi là “Indochina Immigration and Refugees Act” sau này, mà
khi rảnh hơn chúng ta sẽ nói chuyện rõ thêm.
NV: Cảm ơn ông đã dành thì giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn.
LTS: Cách đây gần 40 năm, trong thời gian gần 30 Tháng Tư, khi chiến tranh Việt Nam sắp chấm dứt, viễn ảnh miền
Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản ngày càng gần, Giáo Sư Stephen Young, một người có vợ Việt Nam, yêu quê
hương của vợ, cùng một nhóm thanh niên trẻ làm việc trong nhiều vị trí quan trọng tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, qua
Việt Nam sinh sống, đã băn khoăn về việc Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam, và tìm cách vận động chính phủ cho phép một
số người Việt Nam được vào Hoa Kỳ tị nạn. Sự vận động thành công của họ mở đầu cho quy chế tị nạn vào thập
niên 1980. Nhân một dịp đến thăm tòa soạn, Giáo Sư Stephen Young kể lại cho nhật báo Người Việt về thời gian
này, qua một cuộc phỏng vấn, tóm lược dưới đây.
Hà Giang/Người Việt
Sửa bởi người viết 30/04/2014 lúc 09:22:32(UTC)
| Lý do: Chưa rõ