Câu mà tác giả muốn nói là "Việt Nam còn, nếu và chỉ nếu triệu con tim này còn là triệu khối kiêu hùng." Điều đó dẫn đến bốn câu sau:
1. Nếu Việt Nam còn, thì triệu dân Việt Nam vẫn còn là triệu khối kiêu hùng.
2. Nếu triệu dân Việt Nam vẫn còn là triệu khối kiêu hùng, thì Việt Nam còn.
3. Nếu triệu dân Việt Nam không còn là triệu khối kiêu hùng, thì Việt Nam không còn.
4. Nếu Việt Nam không còn, thì triệu dân Việt Nam không còn là triệu khối kiêu hùng.
Nghĩa là trong hiện tại, sự tồn vong của đất nước Việt Nam và ý chí kiêu hùng của toàn dân Việt Nam liên hệ với nhau một cách độc nhất. Trong lịch sử, Việt Nam mất, nhưng ta lấy lại được. Nhưng bây giờ chuyện đó không còn đúng nữa. Nếu Việt Nam mất, là ta mất vĩnh viễn, vì dân Việt không còn ý chí kiêu hùng nữa.
Lời tuyên bố của Nguyễn Đức Quang về sự tồn vong của đất nước là một tối hậu thư cho dân Việt. Như sẽ được trình bày sau, cái tối hậu thư này thật là có ý nghĩa trong giai đoạn đấu tranh hiện tại.
Cuộc hành trình gian khổ nhưng dân Việt vẫn vui sống trong tinh thần đoàn kết thương yêu:
Trong phiên khúc kế tiếp, Nguyễn Đức Quang nhắc lại cuộc hành trình của dân Việt. Người dân lúc nào cũng trải qua những cảnh dầu sôi lửa bỏng hoặc chịu những cực hình đày đọa, cảnh đau khổ lầm than ("Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng"). "Lò lửa hồng" tượng trưng cho sự nhọc nhằn hoặc những cực hình mà dân Việt phải chịu đựng. Cách dùng chữ "giống dân" hơi đặc biệt và ngụ ý dân Việt thuộc loại dân mà cùng chịu cực hình như nhau ("đi tràn") trên con đường đấu tranh.
Tuy gặp khó khăn hoặc chịu cực hình, người dân vẫn lạnh lùng chịu đựng mà chỉ cùng đoàn kết nhìn về cùng một mục đích chung ("Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm"). Nhóm chữ "mặt lạnh như đồng" hơi khác lạ, nhưng rất hữu hiệu vì nó tượng hình và cho thấy thái độ lạnh lùng cứng rắn. Nhóm chữ "cùng nhìn về một xa xăm" cho thấy tinh thần đoàn kết của dân Việt cùng theo đuổi một mục tiêu trong cuộc đấu tranh. Mục tiêu đó tuy xa xăm nhưng vẫn có thể đạt được với ý chí kiên quyết và tinh thần phấn đấu mạnh mẽ.
Cuộc hành trình rất là gian khổ và người dân phải cực nhọc đi, mồ hôi nhễ nhại trên những cánh tay gân guốc dưới ánh mặt trời ("Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi"). Câu này vẽ ra hình ảnh cực nhọc về vật chất, nhưng có ngụ ý cả vật chất lẫn tinh thần, vì tác giả dùng những hình ảnh cụ thể vật chất là ẩn dụ cho những sự trừu tượng tinh thần. Trong cuộc đấu tranh, kẻ thống trị ra tay đàn áp đánh đập, gây cảnh máu đổ thịt rơi. Dù vậy, người dân Việt vẫn ôm vết thương rỉ máu và tươi cười ("Ôm vết thương rỉ máu, ta cười dưới ánh mặt trời"). Hẳn nhiên, cuộc hành trình là nghĩa đen, và nghĩa bóng là trải qua bao năm tháng, đất nước và dân Việt chịu biết bao nhiêu thống hận đau thương, chiến tranh tang tóc, biết bao nhiêu người ngã gục, nhưng dân Việt vẫn sống còn và cùng vui sống trong tinh thần đoàn kết thương yêu.
Dân Việt hãy lo cho thế hệ mai sau chọn tinh thần kiêu hùng của dân Việt:
Trong phiên khúc chót, Nguyễn Đức Quang gửi lời nhắn nhủ cho toàn dân Việt. Người dân nên biết lo cho thế hệ mai sau, thế hệ tương lai sẽ đem lại vinh quang cho tổ quốc để tiếp nối ước vọng tiền nhân. Lời nhắn nhủ ông thật là đơn giản, nhưng thật mạnh mẽ. Con cháu sau này nếu muốn tiếp tục làm con người thì phải làm người huy hoàng, chứ đừng có làm người hèn hạ vô đạo đức ("Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người/ Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam").
Nhưng thế nào là "huy hoàng"?
Một cách bất ngờ, và là đỉnh cao nhất của bài hát, Nguyễn Đức Quang khuyên để làm người "huy hoàng," con cháu ta phải "chọn làm người dân Nam." Có hai điểm trong câu "chọn làm người dân Nam."
Thứ nhất là "dân Nam." "Nam" đây chỉ gì? có phải là miền Nam của nước Việt Nam? Hẳn nhiên là không. Nguyễn Đức Quang không bao giờ tỏ ý phân chia Nam Bắc. Cả toàn bài hàm ý chống lại giặc ngoại xâm, rõ ràng là giặc Tàu, ở phía Bắc nước Việt Nam. Do đó, "Nam" trong "dân Nam" là người Việt Nam ở phía Nam của Tàu. Cách dùng Nam để chỉ toàn nước Việt Nam rất là thông thường. Thí dụ như trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết "Phong tục Bắc Nam cũng khác" cho thấy phong tục Tàu và Đại Việt (tức Việt Nam sau này) là khác nhau, xác nhận Nam là chỉ Việt Nam, và Bắc là chỉ Tàu.
Thứ nhì là cách dùng chữ "chọn." Nguyễn Đức Quang quả thật táo bạo khi dùng chữ "chọn" như thể ai cũng có thể chọn là người của một xứ. Quan trọng nhất, nếu bạn sinh trưởng ở Việt Nam thì bạn có cần phải "chọn" là người Việt Nam hay không? Theo luật quốc tịch của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nếu ai sinh trưởng ở xứ nào thì đương nhiên là công dân của xứ đó, không cần phải có sự lựa chọn gì hết. Tuy nhiên, với cách dùng chữ "chọn," Nguyễn Đức Quang rõ ràng là không có ý nói về khía cạnh quốc tịch. Ông không có ý nói là "chọn" sinh trưởng ở Việt Nam (vì họ đã sinh trưởng ở Việt Nam rồi), mà "chọn" có tinh thần và ý chí của người dân Việt Nam. Cái tinh thần đó, như được nhắc nhở nhiều lần trong các phiên khúc trước và điệp khúc, là tinh thần bất khuất, ý chí kiên trì, kiêu hùng, nhẫn nại, đoàn kết. Cái tinh thần "ngạo nghễ" cho dù bị thất thế sa cơ, bị đàn áp thống trị, vẫn giữ vững niềm tin, lòng tự trọng, và can đảm. Chính cái tinh thần "ngạo nghễ" đó, là tinh thần của dân Nam. Bạn có thể là người Việt Nam, vì sinh trưởng tại Việt Nam, nhưng chưa chắc bạn có tinh thần người Việt Nam. Để làm con người huy hoàng, bạn không thể chỉ vỗ ngực xưng là người Việt Nam, mà bạn phải "chọn" có tinh thần và ý chí của người Việt Nam.
Nguyễn Đức Quang gói ghém ước nguyện ông trong câu "Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam." Câu đó, theo tôi nghĩ, là câu hay nhất trong cả bài hát. Câu đó có ý nghĩa thật sâu sắc và súc tích. Như sẽ được trình bày sau, câu đó lại còn có ý nghĩa hơn hết thảy trong giai đoạn hiện tại của nước Việt Nam.
Ngoài chuyện làm người huy hoàng, con cháu ta còn phải làm người ngang tàng không biết sợ hãi bất cứ ai, và sẵn sàng vạch mặt chỉ tên những kẻ bất lương phản trắc ("Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian"). Một lần nữa, Nguyễn Đức Quang dùng "trần gian" để chỉ mọi người, bất kể là ai, kẻ quyền thế, thống trị, ngoại xâm, hoặc tay sai giặc.
Để kết luận, Nguyễn Đức Quang kêu gọi những người ngã gục cố đứng dậy và mạnh mẽ cùng dấn thân với toàn dân Việt trong tinh thần "ngạo nghễ" trong cuộc đấu tranh bảo vệ sinh tồn của tổ Quốc ("Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên"). Những người ngã gục này có thể là những người bỏ cuộc dọc đường vì thiếu ý chí hoặc bị thương về vật chất hoặc tinh thần. Họ cũng có thể là những người lầm đường lạc lối hoặc làm những chuyện sai lầm trong quá khứ.
Nội dung của bài hát nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng, và thái độ kiêu hùng tự tin của dân Việt qua những đau thương cực khổ tạo ra bởi kẻ thống trị bạo tàn. Bài hát còn nhắc nhở dân Việt, nhất là các thế hệ mai sau, phải ráng giữ gìn tinh thần bất khuất đó để làm người huy hoàng.
Nội dung đó được diễn tả một cách tuyệt vời qua cách dùng những kỹ thuật tinh vi trong lối viết.
B. Cách diễn tả thật độc đáo qua cách dùng điệp ngữ, mỹ từ, và kỹ thuật viết điêu luyện:Có hai điểm nổi bật trong cách diễn tả ý tưởng trong bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ."
Điểm thứ nhất là điệp ngữ. Nguyễn Đức Quang cố tình lập đi lập lại những từ ngữ đánh mạnh vào óc khán giả. Các điệp ngữ này gồm có từ ngữ về cực hình, nỗi nhọc nhằn đau thương, và thái độ ung dung, vui tươi. Ta nhận ra ngay cái tương phản của hai khái niệm này. Cực hình và nỗi nhọc nhằn đau thương gồm có xiềng xích, gông cùm, bàn chông, lò lửa hồng, vết thương rỉ máu. Vui tươi gồm có cười vang vang, cười ngạo nghễ, cười đùa vang vang, cười dưới ánh mặt trời. Bằng cách dùng những hình ảnh cụ thể mô tả hai ý tưởng tương phản và lập đi lập lại nhiều lần, Nguyễn Đức Quang tạo ấn tượng mạnh trên khán giả mà không gây ra nhàm chán. Như một họa sĩ vẽ một bức tranh, ông dùng các màu tương phản, nhưng xếp đặt xen kẽ nhau, tạo ra nét sống động và giúp duy trì hình ảnh trong óc khán giả lâu dài.
Điểm thứ hai là cách dùng các mỹ từ (figure of speech) như ẩn dụ (metaphor), hoán dụ (metonymy), so sánh (simile), và thậm xưng (exaggeration). Nguyễn Đức Quang không dùng các mỹ từ một cách máy móc hoặc sáo rỗng. Ngược lại, ông áp dụng các thể loại này một cách cụ thể và có tác dụng mạnh. Ta thấy hoán dụ ("ta" cho "ý chí ta"), so sánh ("như nước dâng," "mặt lạnh như đồng"). Ẩn dụ xuất hiện khắp nơi, từ ý tưởng tới hình ảnh. Thí dụ: "đường dài ngút ngàn" ngụ ý cuộc đấu tranh; "gông xiềng" cho bị đàn áp, đô hộ; "bàn chông," "lò lửa hồng" cho cực khổ, đày đọa; "vết thương rỉ máu" cho nỗi đau đớn; "người dân Nam" cho chí khí kiêu hùng.
Nguyễn Đức Quang còn dùng một kỹ thuật tinh vi trong cách diễn tả. Đó là cách dùng "thậm xưng," một kỹ thuật phóng đại để làm nổi bật ý tưởng. Dùng gông xiềng là ẩn dụ cho "cái khốn khó, cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu" là một sự phóng đại, tuy cái phóng đại đó không xa thực tế cho lắm. Dùng mắt "rực sáng" mỗi khi "xích kêu loàng xoàng" là ẩn dụ cho niềm phấn khích muốn thoát khỏi cái tù túng của khốn khó, nhược tiểu cũng là một sự phóng đại. Nhưng cái phóng đại đó thật là hiệu quả vì cái ẩn dụ vẽ ra một hình ảnh gây xúc động mạnh. Hình ảnh tù tội là một hình ảnh bi đát và dễ tạo cảm xúc. Ta thấy những hình ảnh thậm xưng đầy rẫy trong bài hát: "đau nhức không nguôi," "đi tràn trên lò lửa hồng," "rỉ máu." Không phải ẩn dụ phóng đại nào cũng hay, và kỹ thuật thậm xưng phải được dùng một cách tinh tế và sâu sắc. Lấy một thí dụ, dùng cơn đói là ẩn dụ cho sự thèm muốn trau dồi kiến thức là một sự phóng đại có hiệu quả vì rất có nhiều người ví kiến thức như món ăn. Do đó, mô tả cảnh rỏ nước dãi là ẩn dụ cho ý muốn học hỏi là sự phóng đại có hiệu quả, vì ai cũng biết cái bi đát của cơn đói. Tuy nhiên, dùng cơn đói là ẩn dụ cho sự thèm muốn tình dục là một sự phóng đại thiếu hiệu quả, một phần vì tính chất vô đạo đức và một phần vì sự khập khiễng của cái ẩn dụ đó. Bạn không thể bịa ra một ý tưởng kỳ quặc nào đó rồi xưng nó là ẩn dụ.
Nguyễn Đức Quang cũng dùng những kỹ thuật viết một cách tinh tế điêu luyện. Ông tả cảnh bằng cách triệt để dùng "cho thấy, không kể" nỗi nhọc nhằn qua các mô tả cụ thể tượng hình, tượng thanh: trận cười vang vang, mắt ta rực sáng, xích kêu loàng xoàng, khua xích kêu vang, tung xiềng vào mặt, máu... dồn lại, xương da thịt, trên bàn chông, cười đùa vang vang, mặt lạnh như đồng, mồ hôi nhễ nhại, cuộn vòng gân tươi, rỉ máu, điểm mặt mày, ngoi dậy. Với lối mô tả dùng chi tiết rõ rệt, ông tạo ra một khúc phim hoạt cảnh với các nhân vật sống động.
Tác giả dùng các động từ mạnh mẽ rất có hiệu quả: nước dâng, lê, rực sáng, khua, tung, dồn, đi tràn, cuộn vòng, chọn, điểm, gục, ngoi dậy. Một điểm đặc biệt nữa là ông dùng từ ngữ mới lạ, mới thoạt nghe tưởng như khập khiễng hoặc không thích hợp, nhưng những từ ngữ này cần có sự suy nghĩ sâu xa mới nhận ra tác dụng của chúng. Thí dụ như "ngạo nghễ," "nụ cười không tươi," "lòng hờn sôi," "miệt mài," "đau nhức không nguôi," "giống dân," "mặt lạnh như đồng."
Ngoài ra, như trình bày ở trên, tác giả áp dụng kỹ thuật độc đáo của nghịch lý ("Trên bàn chông hát cười đùa vang vang") và tương phản để nhấn mạnh ý tưởng.
Nói tóm lại, bằng cách dùng điệp ngữ, mỹ từ, và các kỹ thuật viết tuyệt diệu, Nguyễn Đức Quang vẽ ra một cuộc đấu tranh chống lại thống trị bạo tàn với nét sống động, lôi cuốn, vả hiệu quả.
C. Bản dịch tiếng Anh bài hát "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ":Trong truyện ngắn "Những chiến sĩ cho tự do" (The Freedom Fighters) trong tuyển tập "Lửa Cháy Trong Mưa" (Fire In The Rain) (Cao-Đắc 2014a; Cao-Đắc 2014b), có cảnh chiếc thuyền nhỏ với những thuyền nhân lênh đênh trên biển cả mênh mông. Các người trên thuyền cùng nhau hát bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" trong một sinh hoạt cho qua ngày. Trong nguyên tác tiếng Anh, tôi dịch bài hát sang tiếng Anh (Cao-Đắc 2014b, 266-267). Như trình bày ở trên, bài hát tiếng Việt có lối dùng chữ tinh tế và hơi phức tạp. Do đó, chuyện dịch sang tiếng Anh để giữ được ý tưởng và phản ảnh ý nghĩa của bài hát rất là khó khăn. Chuyện còn khó hơn nữa khi tôi muốn giữ cùng số âm tiết (syllables) trong mỗi câu để bài dịch tiếng Anh có thể hát được với cùng nhạc điệu. Ngoài ra, tôi cũng cố tạo ra vần điệu để bài hát có âm điệu dễ hát và có thể được đọc như một bài thơ. Mục đích chính của tôi là giới thiệu bài hát cho những người nói tiếng Anh, kể cả các thế hệ trẻ gốc Việt không biết tiếng Việt rành rẽ. Hẳn nhiên là bản dịch có thiếu sót hoặc sai lầm và có thể không lột trần được mọi ý nghĩa tinh tế của bài hát. Nhưng tôi hy vọng là bản dịch biểu hiện chính xác ý tưởng chính của bài hát.
VIETNAM, OUR PROUD FATHERLAND
We rise up like high tides that won’t retreat
The long road, merely a laughable feat
We drag our feet shackled by distant pains
Our eyes glitter with the sounds of clanking chains
We stir up chains right before every eye
The lasting smile is one of a sad cry
The distant smile is one of boiling rage
We step forward, tossing chains at their faces
Blood from Văn Lang pours together
Bones and flesh from our forefathers
Everyday, we laugh haughtily in our endless anguish
We are a crowd of proud people
On sharp nails, we sing, laugh out loud
Vietnam lives, so do millions of our proud hearts
We are people walking on glowing coals
With cold faces, we look to the same goals
Our pulsing veins roll under sweaty skin
With blood-dripping wounds, under sunlight we grin
Tell our children to be the righteous
Choose to be the South, to be the glorious
Our bold fingers point at them without fear
Rise up and walk tall, those who collapse, our dear!
D. "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" là lời tiên tri kỳ bí cho phong trào dân chủ tại Việt Nam hiện nay:Một cách kỳ lạ, bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ," lại rất có ý nghĩa vào năm 2014 tại Việt Nam hơn là trong giai đoạn bài ra đời năm 1966 tại Sài gòn. Năm 1966 chứng kiến mức leo thang của chiến tranh Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc chiến, bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" không có nội dung của một bài hùng ca truyền thống thúc dục quân dân miền Nam tích cực tham gia chống lại quân Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng. Tuy Nguyễn Đức Quang muốn viết cho Việt Nam "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu," cái khốn khó, nhược tiểu này nên được biểu hiện, không ít thì nhiều, qua cảnh chiến tranh Nam Bắc và cảnh đất nước chia đôi. Nhưng, một cách kỳ lạ, ông không đả động một chút gì về những chuyện đó, như thể là ông muốn trốn tránh những đề tài đó. Hoặc, như thể ông dành bài hát của ông cho thế hệ sau một cách không cố tình.
Một cách thần bí, trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam, bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" có gíá trị là một bài hùng ca cho phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ hơn bao giờ hết. Viết cách đây gần nửa thế kỷ, bài hát là lời tiên tri cho cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ nguyên văn mà không cần phải sửa đổi một chút xíu nào. Sau đây là những nhận xét chứng minh cho chuyện đó.
Thứ nhất, Nguyễn Đức Quang không hề xác nhận rõ ràng đối tượng cho cuộc nổi dậy của dân Việt là ai. Ông dùng từ ngữ mơ hồ như "mọi người," "nhân gian," và "trần gian." Trong phần phân tích trên, tôi diễn giải các từ ngữ đó là ám chỉ kẻ xâm lăng hoặc kẻ thống trị, đàn áp. Dưới nội dung lịch sử Việt Nam, hầu như tất cả mọi chiến tranh chống ngoại xâm là chống giặc phương Bắc (Hán, Mông cổ, Thanh), với giai đoạn ngắn chống thực dân Pháp. Nhưng nếu ta nghe hoặc đọc kỹ lại lời trong bài ca, đối tượng cho cuộc nổi dậy của dân Việt là kẻ đang thống trị hơn là kẻ ngoại xâm. Thực ra, từ ngữ "mọi người," "nhân gian," và "trần gian" áp dụng thích đáng cho ĐCSVN và chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) và những kẻ thừa hành nhiệm vụ (tòa án, công an, cảnh sát, cán bộ, viên chức) hơn là cho kẻ ngoại xâm, vì những từ ngữ này hàm ý chỉ những người cùng sống chung trong nước. Trong giai đoạn hiện tại, đó là phe thiểu số đang nắm quyền.
Thứ nhì, Nguyễn Đức Quang mô tả các cực hình dân Việt trải qua bằng các ẩn dụ như gông cùm, xiềng xích, bàn chông, lò lửa hồng. Các ẩn dụ này áp dụng cho cực hình dân Việt chịu đựng dưới ách đô hộ Tàu hoặc Pháp, nhưng cũng áp dụng một cách còn chính xác hơn cho các cực hình mà dân Việt đang chịu đựng dước chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam. Ta không khỏi hoảng kinh khi chợt nhận ra rằng ĐCSVN đã đặt gông cùm, xiềng xích, bàn chông, và lò lửa hồng lên dân Việt trong suốt 70 năm ở miền Bắc và 40 năm ở miền Nam. Còn gì chính xác hơn là những gông cùm, xiểng xích của lừa đảo, tàn bạo, mị dân mà ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN đã đặt lên dân Việt trong suốt bao nhiêu năm qua? Cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu, biết bao nhiêu lừa đảo lịch sử biến những thanh thiếu niên nam nữ thông minh tài giỏi thành những kẻ u mê, sự đày đọa dân miền Nam và những quân dân cán chính của chính thể VNCH, các luật lệ rừng rú, sự cưỡng bức đất đai của dân oan, sự bắt bớ giam cầm những người bất đồng chính kiến, dùng các tù nhân lương tâm là con tin trao đổi cho những lợi lộc cho đảng, những tệ trạng tham nhũng, bóc lột dân, khánh kiệt tài nguyên quốc gia, tinh thần khiếp nhược Tàu cộng, những hành vi bán nước công khai và bí mật, dùng bạo lực công an cảnh sát để khống chế đàn áp dân, và muôn ngàn các hành động đốn mạt khác. Nếu những cái đó không phải là gông cùm, xiềng xích, bàn chông, lò lửa hồng thì còn gì chính xác hơn?
Thứ ba, Nguyễn Đức Quang mô tả tinh thần bất khuất, kiêu hùng, ý chí mạnh mẽ, sức chịu đựng bền bỉ dẻo dai của dân Việt. Những mô tả này thực ra còn chính xác và cụ thể hơn cho những người đang tranh đấu cho tự do dân chủ. Những lời lẽ oai phong của Nguyễn Phương Uyên trong phiên tòa quả y như là "tung xiềng vào mặt" lũ quan tòa xử án. Tiếng hát thanh thản của Bùi Thị Minh Hằng trong phiên tòa và lời ca của Đỗ Thị Minh Hạnh trong ngục tù đúng là tiếng "cười ngạo nghễ" trong "đau nhức không nguôi." Vẻ mặt khắc khổ của Điếu Cày Nguyễn Văn Hải bình tĩnh trong ngày xử cho thấy "mặt lạnh như đồng" với tia "nhìn về một xa xăm." Đôi dép tổ ong của Điếu Cày là biểu hiện cho "da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi." Và biết bao nhiêu người đã gục ngã vì bị hành hạ, đánh đập, thiếu thuốc men, trong và ngoài ngục tù là những người "ôm vết thương rỉ máu" nhưng, với những người còn sống, họ vẫn "cười dưới ánh mặt trời."
Thứ tư, Nguyễn Đức Quang tuyên bố một câu về sự tồn vong của đất nước Việt Nam là "Việt Nam còn nếu và chỉ nếu triệu con tim này còn là triệu khối kiêu hùng." Câu tuyên bố đó thực ra cũng không có gì là lạ trong một bối cảnh bình thường. Tuy nhiên, điểm lạ là lời tuyên bố có vẻ như trên trời rớt xuống trong một bài hát thúc đẩy người dân thoát khỏi cảnh khốn khó, nhược tiểu. Vì câu đó là câu chót trong điệp khúc, ta phải hiểu đó là câu quan trọng nhất. Nhưng câu quan trọng nhất đó lại có vẻ không ăn nhằm gì tới những dàn dựng của tác giả về gông cùm, xiềng xích, về tung xiềng vào mặt nhân gian, cười ngạo nghễ trong đau nhức không nguôi, trên bàn chông hát cười đùa vang vang, đi tràn trên lò lửa hồng, cùng nhìn về một xa xăm, v.v. nếu được nhìn dưới bối cảnh lịch sử dân Việt chống ngoại xâm. Cái kết nối của những dàn dựng đó với chuyện tồn vong của đất nước rất là lỏng lẻo vì tác giả đang diễn tả sự kiêu hùng của dân tộc và chống lại ngoại xâm hoặc thống trị bạo tàn. Chuyện mất nước có vẻ đột ngột. Tại sao chuyện thoát khỏi cảnh khốn khó, nhược tiểu lại dính líu hệ trọng đến sự sống còn của nước Việt Nam? Khi bài hát ra đời, câu đó không khiến cho ai suy nghĩ gì thêm, và ai cũng cho rằng đó là câu nói tự nhiên về lịch sử đất nước.
Tuy nhiên, khi ta nghe hoặc đọc câu đó trong lúc này, ta không khỏi rùng mình kinh ngạc. Hiện nay, không có gì đáng sợ hơn cho dân Việt là nỗi sợ mất nước vào tay Tàu cộng. Bí mật của hội nghị Thành Đô vẫn chưa được đem ra ánh sáng. Thái độ của giới lãnh đạo ĐCSVN rất là khả nghi và những hành động gần đây của họ và Tàu cộng cho thấy cái hiểm họa mất nước là sự thật. Khi bài hát được nghe hoặc đọc lúc này, ta thấy cái móc nối giữa sự tồn vong đất nước và dàn dựng về gông cùm xiềng xích, cười ngạo nghễ, hát cười đùa, v.v. quả thật là chặt chẽ. Đúng vậy, nếu triệu người dân Việt không còn là triệu khối kiêu hùng ngạo nghễ thì Việt Nam sẽ không còn.
Thứ năm, Nguyễn Đức Quang kể câu chuyện đất nước Việt Nam là cuộc hành trình dài ngút ngàn của đấu tranh cho tự do, thoát bỏ gông cùm xiềng xích, và tinh thần kiêu hùng, thái độ ngạo nghễ của dân Việt. Tuy Nguyễn Đức Quang dùng những hình ảnh này là ẩn dụ cho "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu," câu chuyện gầy dựng nhắc nhở đến lịch sử. Câu chuyện đó phù hợp với lịch sử Việt Nam một cách tổng quát, nhưng nó không phù hợp với những giai đoạn lịch sử tổ quốc từ thời máu từ thành Văn Lang dồn lại và cha ông miệt mài bỏ thịt xương bảo vệ đất nước.
Quan trọng nhất, có thật là Nguyễn Đức Quang đang kể chuyện lịch sử Việt Nam hay không? Câu chót của bài hát cho ta câu trả lời: "Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên." Đó là một lời kêu gọi. Lời kêu gọi cho một phong trào hiện tại, không phải là câu chuyện quá khứ. Tác giả kêu gọi gì trong năm 1966 khi cuộc chiến hai miền đang xảy ra tàn khốc? Cả toàn bài không hề nhắc đến cuộc chiến hai miền, hoặc sự khác biệt ý thức hệ. Do đó lời kêu gọi của tác giả, tuy có thể chấp nhận là lời kêu gọi "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu," vào năm 1966, lại là lời kêu gọi thích đáng nhất trong năm 2014. Đúng vậy, chỉ có trong giai đoạn này, lời kêu gọi cho một cuộc nổi dậy đứng lên chống lại kẻ đang thống trị đấ̀t nước vì sự tồn vong đất nước mới là thích đáng.
Thứ sáu, Nguyễn Đức Quang cho một lời khuyên gần cuối bài: "Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam." Như đã phân tích ở trên, câu này rất thâm thúy và súc tích với ý nghĩa của "dân Nam" và "chọn." Ta biết "dân Nam" hàm ý tinh thần bất khuất, ý chí bền bỉ, và thái độ " ngạo nghễ" của dân Việt. Ý nghĩa "chọn" có thể không đặc sắc lắm ở giai đoạn thập kỷ 1960, và có thể còn bị coi là hơi gượng ép. Tuy nhiên, với tình trạng hiện nay tại Việt Nam và trong giai đoạn của cuộc đấu tranh dân chủ, "chọn" là một động từ độc đáo, tuyệt vời, và có ý nghĩa vô cùng thấm thía.
Đúng vậy, người dân Việt hiện nay tại Việt Nam có thể "chọn" làm người "dân Nam" hay không tùy ý. Họ có thể chọn tham gia phong trào dân chủ để "làm người huy hoàng," với tinh thần bất khuất, "tung xiềng vào mặt nhân gian," và "cười ngạo nghễ" trong "đau nhức không nguôi." Họ có thể sẽ phải trả một giá đắt cho sự lựa chọn của họ. Họ có thể sẽ phải nhọc nhằn "mồ hôi nhễ nhại" hoặc "ôm vết thương rỉ máu," ngồi "trên bàn chông," hoặc đi trên "lò lửa hồng," nhưng họ vẫn "cười đùa vang vang" và "cười dưới ánh mặt trời" vì họ biết Việt Nam còn nếu và chỉ nếu "triệu con tim còn là triệu khối kiêu hùng."
Ngược lại, họ cũng có nhiều lựa chọn khác ngoài chuyện tham gia phong trào dân chủ.Họ cũng có thể "chọn" đi theo chính quyền và giúp chính quyền đàn áp những người đấu tranh. Họ cũng có thể "chọn" không tham gia phong trào dân chủ và không giúp chính quyền, khoanh tay nhìn những người đấu tranh bị đàn áp. Họ cũng có thể "chọn" bỏ qua mọi chuyện, không đoái hoài gì đến vận mạng đất nước, và tiếp tục sống với cuộc sống riêng tư của họ. Cuộc sống riêng tư đó có thể sung túc, nhàn nhã, nhưng cũng có thể nghèo khổ, bận rộn.
Với sáu nhận xét trên, bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" quả thật là bài hát viết đặc biệt dành cho phong trào dân chủ hiện nay tại Việt Nam. Ta không rõ tại sao Nguyễn Đức Quang viết bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" với những ý tưởng và cách diễn tả bất chấp thời gian. Nhưng, như một tình cờ lịch sử may mắn, những gì gói ghém trong bài hát sống dậy một cách huy hoàng và mạnh mẽ, đem lại uy lực bất khả kháng cho phong trào dân chủ trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam hiện nay.
E. Kết Luận:Ca khúc "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" là một bài hát nói lên sức mạnh của dân Việt với tinh thần bất khuất và sức chịu đựng bền bỉ trải qua những nhọc nhằn và đau thương trong cuộc đấu tranh chống lại thống trị bạo tàn. Nguyễn Đức Quang diễn tả ý tưởng một cách hữu hiệu qua cách dùng điệp ngữ, mỹ từ, và các kỹ thuật viết tài tình, vẽ ra hình ảnh cuộc đấu tranh sống động với cảnh tượng linh hoạt và đầy cảm xúc. Bài hát được dịch sang tiếng Anh với cùng số âm tiết cho mỗi câu để có thể hát với cùng nhạc điệu như bản tiếng Việt. Mục đích là để truyền bá cho những người nói tiếng Anh, kể cả các thế hệ sau này.
Bài hát được viết cách đây gần nửa thế kỷ nhưng, như lời tiên tri kỳ bí, lại áp dụng rất thích hợp cho cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ hiện nay tại Việt Nam. Phong trào dân chủ nên dùng bài hát này để kêu gọi toàn dân Việt Nam đứng lên trong cuộc nổi dậy chống lại bạo quyền cộng sản.
CẢM TẠTôi xin có lời cảm tạ các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo, nhất là các bạn Sài gòn, daubetangthuong và bức xúc, đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn Sài gòn.
Cao-Đắc Tuấn (Danlambao)
____________________
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Cao-Đắc, Tuấn. 2014a. Lửa Cháy Trong Mưa. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.
2. Cao-Đắc, Tuấn. 2014b. Fire In The Rain. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.
3. DuCa. 2003. Phong trào DU CA Việt Nam.
http://www.ducavn.com/ (truy cập 25-10-2014).
4. Nhóm Thân Hữu. 2011. "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" Tưởng Niệm Người Du Ca Muôn Thuở.
http://ducavn.nl/duca_fi...ucQuang/TuongNiemNDQ.pdf (truy cập 25-10-2014).
5. Trần Trung Đạo. 2008. Khi bài hát trở về. Đăng 26-10-2014.
http://danlambaovn.blogs.../khi-bai-hat-tro-ve.html6. Wikipedia. 2014. Nguyễn Đức Quang. Sửa đổi lần cuối 17-4-2014.
http://vi.wikipedia.org/...n_%C4%90%E1%BB%A9c_Quang (truy cập 27-10-2014)