logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
xuong  
#1 Đã gửi : 14/06/2012 lúc 11:10:18(UTC)
xuong

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 8,813

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Nhân dịp đọc bài viết của Hoàng Thanh Trúc trên Dân Làm Báo và qua đó đọc thêm các bài viết khác Không hổ thẹn về một thời trai trẻ của một nhóm tác giả và Cuộc họp mặt “có một không hai” của Huỳnh Tấn Mẫm trên báo Tuổi Trẻ sau buổi hội thảo “tầm vóc và ý nghĩa của phong trào đấu tranh của sinh viên – học sinh trí thức, văn nghệ sĩ… tại các đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” được tổ chức tại Đại học Duy Tân (Đà Nẵng) trong hai ngày 19 và 20-5-2012, tôi chợt nhớ lại một bài thơ tôi viết từ lâu lắm cũng có nhắc đến các anh chị này.

Bài thơ Đêm cuối đi qua trường Luật viết ra trong những ngày mới đến Mỹ nhưng bắt nguồn từ những ý hiện lên trong một đêm mưa tháng Sáu 1981 ở Sài Gòn. Tôi không ghi lại ngày tháng viết bài thơ nhưng có in trong tập thơ đầu tay ở Mỹ năm 1991. Bài thơ khá dài, dưới đây là một đoạn có liên quan đến bài viết này:

Trời Sài Gòn tháng Sáu mưa đêm
Như từng nhát dao chém xuống đời vội vã
Tôi ra đi dặn lòng quên tất cả
Những hẹn thề toan tính thuở hoa niên
Bốn phương trời lưu lạc một bầy chim
Đã lạc lối về sông Dương Tử
Tổ quốc Việt Nam
Bốn nghìn năm lịch sử
Còn lại hôm nay là những tang thương
Tôi nhìn qua bên góc kia đường
Tấm bảng Hội Liên Hiệp Sinh Viên
Vẫn còn đong đưa trên vách
Chợt nhớ ra tên các chị các anh
Những Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban
Những Nguyễn Hoàng Trúc, Võ Như Lanh
Các anh, các chị
Giờ nầy chắc vẫn còn đang thức
Để viết xong bài tự kiểm trước nhân dân
Nhớ viết thật nhiều về những chiến công
Đã đốt bao nhiêu xe Mỹ Ngụy
Đã bán đứng bao nhiêu bè bạn anh em
Đã cắm được bao nhiêu cờ mặt trận
Tôi không hề trách các anh
Vì chẳng bao giờ ai trách
Những tên cầm cờ, khiêng kiệu
Hãy cố cong lưng và thu mình thật nhỏ
Hãy biết dại khờ và biết ngây ngô
“Độc lập, Hòa Bình, Thống Nhất, Tự Do”
Phải nhớ luôn luôn là tất yếu
Kể cả chuyện tình yêu trai gái
Cũng phải học thuộc lòng
Định nghĩa mới hôm nay
Đừng bao giờ nhắc những chuyện không may
Như những Ủy Ban Đòi Quyền Sống
Những Phong Trào Dân Chủ Tự Do
Dân Việt Nam bây giờ
Không có gì đáng để lo
Hơn những chuyện cháo rau, khoai sắn
Và không có một chút quyền
Dù chỉ là quyền để than thân trách phận.

Tôi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn cuối tháng Tám 1972. Nơi tôi ghi danh học đầu tiên là trường Luật. Có thể nói tôi là một trong những tân sinh viên nộp đơn vào năm thứ nhất niên khóa 1972-1973 trễ nhất. Ghi danh vào trường Luật không cần phải thi, chỉ cần trình bằng tốt nghiệp Tú Tài phần hai là đủ. Phòng ghi danh là một khu nhà lụp sụp phía sau trường chung một hàng rào với đại học Kiến Trúc. Tôi được phát một thẻ sinh viên tạm. Số sinh viên của tôi dài tới năm số. Tôi không nhớ chính xác nhưng hai số thứ tự đầu đã lên đến trên mười ngàn. Trường Luật, được chính thức thành lập dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa, là một trong những trường già nua về cả hình thức lẫn chiều dài lịch sử, trong số các trường đại học thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Trường không có nhiều đất trống ngoại trừ khoảng sân không mấy rộng giữa trường. Cổng trường còn lại những viên ngói đỏ rêu phong từ khi mới thành lập. Giảng đường chỉ là những phòng học dài nối nhau. So với các trường trung học như Gia Long, Petrus Ký, trường đại học Luật Khoa Sài Gòn nhỏ hẹp và chật chội hơn nhiều. Vì số thẻ sinh viên của tôi cao trên mười ngàn nên có lần tôi viết câu thơ mô tả trường Luật “mười ngàn sinh viên trong giảng đường vài trăm chỗ / học suốt năm không thấy mặt thầy”.

Công việc đầu tiên của một tân sinh viên sau khi ghi danh, nhận lớp, là đi mua “cua” tức sách giáo khoa giảng dạy của các thầy, từ dân luật, hình luật đến cổ luật. Vì hiếm khi gặp mặt thầy, không có “cua” là rớt. Sau khi ghi danh ở Luật, tôi sang ghi danh Ban Kinh Tế khoa Khoa Học Xã Hội ở đại học Vạn Hạnh. Khoa Khoa Học Xã Hội ở Vạn Hạnh phải thi vào nhưng cũng chỉ thi cho đúng thủ tục vì tôi không nghe ai thi rớt vào khoa Khoa Học Xã Hội ở đại học Vạn Hạnh bao giờ.

Trường Luật chật hẹp mà sinh viên lại quá đông, chúng tôi thường la cà trong những quán cốc. Nhiều nhất là chung quanh công trường Quốc Tế, thường gọi là Hồ Con Rùa, bên ngoài trụ sở “Tổng Hội Sinh Viên” số 4 Duy Tân hay góc Thư Viện Quốc Gia trên đường Gia Long. Các quán cà phê thường không có tên. Ngoài quán cà phê Bà Vú bên ngoài đại học Vạn Hạnh, phần lớn các quán chung quanh trường Luật do sinh viên tự đặt tên bằng địa điểm để dễ hẹn nhau. Số sinh viên ghi danh vào Luật cao nhưng bỏ trường ra đi sớm rất đông và thi rớt cũng nhiều. Trong số những người bỏ cuộc có tôi. Tôi học cả hai trường và vì kỳ thi cuối khóa cùng ngày nên tôi không theo đuổi việc học Luật hết năm thứ nhất. Bạn bè tôi phần đông học Luật nên mỗi tuần tôi đều trở lại trường. Ở đó, dưới những gốc me, vỉa phố, bên những ly cà phê đen, cà phê sữa, trên những ghế thấp, cạnh những chiếc bàn vuông, chúng tôi để cho những thao thức về chiến tranh và số phận đất nước có dịp tuôn trào. Tuổi đời còn rất trẻ nhưng chiến tranh đã làm chúng tôi già sớm hơn tuổi mười tám của mình.

Khi sang Vạn Hạnh tôi có dịp học với thầy Trần Văn Tuyên môn Chính Trị Quốc Nội và thầy Vũ Quốc Thông môn Luật Hiến Pháp Đối Chiếu. Đây là hai môn học tôi thích nhất. Luật Sư Trần Văn Tuyên không mang theo sách vở hay tài liệu giảng dạy gì và những bài giảng của thầy là kinh nghiệm sống trong thời hoạt động chính trị. Vì thầy dạy không theo giáo khoa nên giảng đường lúc nào cũng đông. Sinh viên phải có mặt để ghi lời thầy giảng. Tôi thường tìm cách gần gũi thầy Trần Văn Tuyên để hỏi những chuyện đất nước trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954. Thầy Trần Văn Tuyên đơn giản, tóc cắt cao và thường mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay. Thầy Vũ Quốc Thông thì khác, lúc nào cũng đường bệ, chuẩn bị kỹ càng và luôn đến lớp với một cặp-táp (le cartable) đầy tài liệu giảng dạy. Tôi hay thắc mắc với thầy Vũ Quốc Thông về cách dùng chữ. Ví dụ thầy dùng chữ “Chủ nghĩa Tập Sản” thay cho “Chủ nghĩa Cộng Sản”. Tôi cho rằng khái niệm “Chủ nghĩa Tập Sản” hay “Chủ nghĩa Bình Sản” được nhắc đến nhiều trước năm 1975, chỉ là một phạm trù thuần kinh tế, nghĩa hẹp nhiều so với chủ nghĩa Cộng Sản vốn là cả một hệ thống triết học giải thích toàn bộ đời sống con người, xã hội và vũ trụ. Thầy chăm chú lắng nghe ý kiến nhưng không thay đổi cách gọi “tập sản” của mình. Thầy Vũ Quốc Thông dạy tận tụy và trích dẫn nhiều từ các sách Pháp, trong đó có cả Tuyển tập Marx-Engel. Thầy chúng tôi, Giáo sư Trần Văn Tuyên chết trong tù Cộng Sản năm 1976 và Giáo sư Vũ Quốc Thông chết năm 1987, chỉ một thời gian ngắn sau khi ra khỏi nhà tù. Tình nghĩa thầy trò ở miền Nam, dù tiểu học, trung học hay cả đại học đều thắm thiết, thân thương, đáng kính, đáng yêu và đáng nhớ. Tôi cố gắng rất nhiều nhưng không phải là người tự học. Kiến thức của tôi là của các thầy cô trao lại. Đứa sinh viên năm thứ nhất ngày xưa không còn trẻ nữa nhưng mỗi khi nghĩ đến các thầy cô tự nhiên thấy mình nhỏ lại thật nhiều.

Thời gian từ năm 1973 đến năm 1975 là thời gian yên tỉnh. Chương trình bình định đại học khá thành công. Mùa hè năm 1973, một nhóm sinh viên chúng tôi đại diện cho trường tham dự trại hè sinh viên toàn quốc do Bộ Giáo Dục và Thanh Niên tổ chức ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Đông sinh viên du học cũng về tham dự trại. Dĩ nhiên không có “lãnh tụ sinh viên” đường phố nào. Đó là những ngày vui nhất của mùa hè. Không chỉ sinh viên Sài Gòn, Vạn Hạnh, Minh Đức mà cả Huế, Cần Thơ, Đà Lạt và các trường đại học tư mới thành lập cũng cử phái đoàn tham dự. Buổi tối chúng tôi quây quần trong sân cờ của trường Thiếu Sinh Quân trao đổi kinh nghiệm học hành, chuyện đất nước và hát nhạc Du Ca như có lần tôi đã kể lại trong bài viết Khi bài hát trở về. Ngoại trừ các nhóm chống chính phủ bốn mùa của các bà Ni Sư Khất Sĩ Huỳnh Liên, Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống của bà Ngô Bá Thành, năm 1973, các phong trào sinh viên tranh đấu ở Sài Gòn do Cộng Sản tổ chức phần lớn đã được dập tắt. Các “lãnh tụ sinh viên học sinh” mặt nổi như Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban, Trần Thị Lan, Lê Văn Nuôi, Võ Như Lanh, Nguyễn Xuân Lập v.v. đã bị kết án và vừa được trao trả tù binh.

Nhắc đến chuyện trao trả tù binh không thể quên tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình của nhà văn Phan Nhật Nam, trong đó anh dành trọn một chương để viết về những người mà anh gọi là “Những người lỡ làng”. Hôm đó, buổi chiều ngày 27-3-1973, những “lãnh tụ sinh viên” sắp được trao trả về phía Cộng Sản đang tụm nhau ngồi trong một chiếc lều để chờ được nhận. Những bài hát của Phạm Thế Mỹ, Trịnh Công Sơn được cất lên từ chiếc lều nhỏ. Họ gồm Võ như Lanh, Trịnh đình Ban, Cao thị quế Hương, Trần thị Lan, Trần thị Huệ, Nguyễn thành Công. Không ai biết họ hát để nung cao khí thế hay hát để che đi sự lo âu trước tương lai mờ mịt núi rừng đang chờ đợi họ. Trong quan điểm đấu tranh giai cấp, dù các anh chị là đảng viên Cộng Sản cũng chỉ là đảng viên thành phố, gốc tiểu tư sản, vừa gia nhập và không được tin tưởng hoàn toàn. Nhà văn Phan Nhật Nam tả cảnh anh Nguyễn Thành Công khi tiếp xúc với viên Đại Tá Hungary trong “đôi mắt có vẻ lạc thần, giọng nói đã đượm màu mệt mỏi”. Anh Phan Nhật Nam viết đoạn đó thật cảm động. Anh không giận hay trách móc những tù binh gốc sinh viên anh sắp sửa trao trả mà cảm thông cho sự bồng bột tuổi trẻ của họ nhiều hơn:

“Phải, tôi hiểu rằng nhóm sinh viên đang ngồi ở dưới tàn cây cao su, đang gảy nên những âm thanh trầm lắng với tiếng hát nhiệt thành trong sáng kia quả tình không thể nào là những người cộng sản được. Họ không thể nào là những người cộng sản chuyên chính, dù cho họ đã vào khu học tập, dù đã là cán bộ nội thành làm nhiệm vụ sinh viên vận theo đường lối và kỹ thuật đấu tranh phát xuất từ Cục R, kiểm soát và điều hành bởi ủy viên thanh niên thuộc thành ủy Sài Gòn-Chợ Lớn. Họ cũng không phải là cộng sản dù có chứng minh thư xác nhận là thành viên của đảng lao động, hoặc thành viên của đoàn thanh niên trong mặt trận giải phóng…Vì tiếng hát, điệu đàn, nét mặt và lời nói tất cả vẫn là phản ảnh của một hoài bão, hoài bão bất diệt của tuổi trẻ. Muốn thoát khỏi hoàn cảnh bít bùng của đời sống hiện tại, đấu tranh và xây dựng một quê hương rạng rỡ tốt đẹp hơn. Và chính phát xuất từ ý định đẹp đẽ mơ tưởng này, hoài bão của họ đã được đồng hóa với mục tiêu chiến thuật đoản kỳ của cộng sản. Và họ trở thành loại cán bộ tiền phong đắc lực thực hiện những mục tiêu hạn chế trong đường phố Sài Gòn, nơi Giảng Đường, trong lòng cộng đồng tuổi trẻ Việt Nam.”

Trong bài viết Những người đi tìm tổ quốc trên talawas năm 2006, tôi cũng viết về các anh chị đó:

“Thời sôi nổi trong giảng đường đại học, trên đường phố Sài Gòn đã là dĩ vãng, giữa rừng cao su Lộc Ninh họ là những thanh niên thành phố đang bước vào một cuộc đời mới ở một nơi hoàn toàn xa lạ. Như những con cá bị vớt khỏi sông và bỏ vào trong chậu, ngơ ngác, rụt rè, sợ hãi. Họ không còn là bè bạn của nhau, không còn gọi nhau bằng tên, bằng thứ mà sẽ là đồng chí. Đồng chí cũng đồng nghĩa với nghi ngờ, kiếm soát và dò xét lẫn nhau. Họ hối hận không? Họ thật sự có phải là Cộng sản không? Họ có phân biệt được, dù chỉ là căn bản, những điểm khác nhau giữa xã hội mà họ vừa bỏ lại và xã hội mà họ đang tìm đến không? Không ai hỏi và họ cũng sẽ không trả lời thật với lòng. Có những tâm sự, sống giữ kín chết mang theo, chứ không bao giờ chia sẻ với ai. Hồi xưa tôi cũng có cái nhìn khắt khe về những người bỏ đi. Các anh có quyền biểu tình, có quyền chống độc tài, chống tham nhũng, chống độc diễn nhưng khi bỏ đi sang hàng ngũ của những người ném lựu đạn vào quán ăn, pháo kích vào trường học, đặt mìn trên quốc lộ, các anh đã phản bội quyền sống trong hoà bình của nhân dân miền Nam. Giống như những đứa con lớn lên trong một gia đình nghèo, có bà mẹ bịnh tật, có người cha say rượu hay đánh đập con cái và còn một bầy em nhỏ dại. Thay vì khuyên răn người cha, săn sóc người mẹ, che chở cho đám em khờ, các anh lại bỏ đi, và chẳng những đã bỏ đi mà còn dắt kẻ gian về đốt phá nhà mình.”

Ngày nay, các tài liệu của Đảng đều xác nhận hoạt động của các phong trào chống đối chính quyền VNCH chẳng phải là tự phát chống bất công, độc tài, độc diễn gì mà đều được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thành Đoàn Thanh Niên Cộng Sản trực thuộc Thành ủy Sài Gòn Gia Định nhắm vào mục tiêu duy nhất là đánh sụp chế độ Cộng Hòa non trẻ ở miền Nam và áp đặt chế độ Cộng Sản độc tài toàn trị trên phạm vi cả nước. Tất cả tổ chức, phong trào, tôn giáo, đoàn thể đều được Đảng khai thác, vận dụng một cách tinh vi để phục vụ cho mục đích cuối cùng của đảng Cộng Sản.

Những tên tuổi, hình ảnh được báo chí đối lập và thân Cộng ở Sài Gòn đánh bóng mà nhà văn Phan Nhật Nam nhắc đến chỉ là những khuôn mặt đấu tranh công khai trên đường phố Sài Gòn. Họ không biết những đảng viên Cộng Sản nòng cốt thực sự điều khiển phong trào từ bóng tối là ai. Những kẻ mài dao giết người thường trốn kỹ trong rừng. Những kẻ trao lựu đạn cho sinh viên để ném vào nhà hàng, trường học, chợ búa thường giấu mặt. Họ không gọi nhau bằng tên thật, bằng mày tao thân tình trong quán cà phê bên ngoài khuôn viên đại học Văn Khoa, Luật Khoa mà gọi bằng bí danh, bằng thứ tự.

Những “anh ba”, “chị năm” đó bây giờ đang sống trong những biệt thự cao sang, có kẻ hầu người hạ và những chàng sinh viên một thời bồng bột nay chỉ là những “kẻ lạ của hoàng hôn” “lặng nghe những dư âm sâu lắng của quá khứ đọng lại, rồi trôi theo những món ăn với một vị đắng đắng” như anh Hạ Đình Nguyên, một trong những “lãnh tụ phong trào sinh viên” đã viết trong bài Về một vị đắng sau buổi họp mặt kỷ niệm “Phong trào Đấu tranh của Thanh niên-Sinh viên-Học sinh Sài gòn” năm ngoái.

Khi tôi vào năm thứ nhất, nhiều trong số anh chị tham gia xuống đường vài năm trước vẫn còn học năm thứ ba, thứ tư, và qua họ tôi biết con số sinh viên tham gia biểu tình không đông như báo chí thân Cộng mô tả và cũng không mang tầm vóc “quốc tế” chỉ với vài chàng thanh niên phản chiến Mỹ như bài ký thổi phồng của anh Huỳnh Tấn Mẫm. So với nhiều chục ngàn sinh viên liên khoa thuộc đại học Sài Gòn và các đại học tư tại miềm Nam thời đó, vài trăm anh chị bị xúi giục xuống đường chỉ là con số nhỏ. Thành thật mà nói, phần đông những sinh viên đi biểu tình là những người nặng tình cảm dành cho đất nước nhưng vô cùng nông nỗi. Các anh chị bất mãn trước các bất công trong xã hội và phẩn uất khi nhìn cảnh điêu tàn đổ nát do cuộc chiến gây ra nhưng không nhận thức đúng nguyên nhân sâu xa của thực trạng bi thảm đang diễn ra trên đất nước và không đủ trưởng thành để cân nhắc trước một chọn lựa sinh tử của đời mình.

Tuổi trẻ ở đâu cũng thế, nhiệt tình, phản kháng, cương trực, vô tư, nhưng như tôi có lần đã viết, tại Việt Nam những đặc tính đó của tuổi trẻ bị Đảng Cộng sản lợi dụng tận cùng, không chỉ tiếng hát lời ca, mà còn cả thịt xương và từng giọt máu.

Bài hát quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 nói lên một mơ ước chân thành của thế hệ trẻ “Rồi hòa bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt, đôi bồ câu trắng rủ nhau về làng xưa…”, nhưng sau năm 1975, đàn bồ câu đã biến thành bầy kiến gặm nhấm vết thương dân tộc đang mưng mủ. Tiếng hát của các anh chị trên đường phố được thay bằng những tiếng rên của những bà mẹ đang bán máu ở các nhà thương. Lời ca của các anh chị sau được thay bằng là tiếng khóc của em thơ trên các vùng kinh tế mới. Đất nước chìm đắm trong độc tài và đói khát. Hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, chết trên biển cả, chết dưới bàn tay hải tặc.

Các anh các chi, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là những người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy kể lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của mình. Là những người có lương tâm, hôm nay, không có tòa án nào kết án các anh chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh chị. Là những người vốn nặng tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé các anh chị bằng tình cảm các anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt Nam băng hoại, trụy lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi vào đó để thấy lại chính mình.

Chế độ dân chủ non trẻ mà các anh chị góp phần đánh gục, đã quỵ xuống sáng ngày 30-4-1975 nhưng không chết. Và tại Việt Nam hôm nay, các gía trị dân chủ quý giá đó không chỉ là của miền Nam thôi, không chỉ là của Việt Nam Cộng Hòa thôi mà đang là tài sản, hành trang và mục tiêu chung của cả dân tộc.

Dân chủ là khúc khải hoàn ca đang được nhân loại cất vang trên mọi nơi của quả địa cầu, từ Bắc Phi sang Đông Á nhưng không có nghĩa chỉ mới bắt đầu vài năm qua mà từ nhiều ngàn năm trước. Có người bàn về dân chủ như một mục đích đòi hỏi nhiều tiền đề và điều kiện. Điều đó không đúng. Dân chủ không phải là hải đảo xa xôi phải cần ghe tàu, lương thực, thời gian mới đạt tới nhưng là một thực tế gần gũi trước mắt và thậm chí có thể nắm bắt trong tay. Dân chủ không phải món quà của ai ban cho khi đến tuổi trưởng thành mà là quyền làm người bắt đầu từ trong bụng mẹ.

Quốc gia Mông Cổ, một quốc gia không có truyền thống dân chủ, là một ví dụ. Nhiều người cho Mông Cổ khó có thể trở thành một nước dân chủ sau một giai đoạn phong kiến hàng ngàn năm nối tiếp bằng một chế độ Cộng Sản chuyên chính chư hầu Liên Xô suốt hơn bảy chục năm. Khi tôi viết bài này, nhân dân Mông Cổ đánh dấu tròn 20 năm được sống dân chủ. Đôi cánh thiên thần đó đã giúp đưa Mông Cổ từ một quốc gia cô lập, bất ổn cùng hạng với Afghanistan, Nigeria và Somalia trở thành một trung tâm du lịch an toàn và đầy hấp lực văn hóa. Hai mươi năm trước đường phố thủ đô Ulaanbaatar gần như hoang vắng nhưng ngày nay tấp nập và phồn vinh. Theo tạp chí Economist, dù kinh tế thế giới còn đầy khó khăn, mức phát triển kinh tế của Mông Cổ trong ba tháng giữa 2011 đã tăng 21% so với cùng thời kỳ trong năm trước đó. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự đoán kinh tế Mông Cổ sẽ tăng trung bình 14% từ 2012 đến 2016. Là một quốc gia trong vị trí trái độn với vỏn vẹn 2.5 triệu dân và không có chiều dày truyền thống dân chủ như nhiều quốc gia khác, Mông Cổ sẽ còn gặp nhiều khó khăn nhưng cơ chế chính trị mới giúp cho người dân sống yên tâm trong tự do, thanh bình, no ấm và nỗ lực vì một tương lai tươi đẹp cho con cháu họ.

Việt Nam thì khác.
Sau 37 năm, tiếng súng đã vắng đi trên đất nước Việt Nam, non sông liền một dải nhưng người dân vẫn sống trong nỗi bất an lo sợ, hàng trăm ngàn người con gái Việt phải rời bỏ quê hương đi ăn mày, làm điếm, ở đợ khắp thế giới, phần lớn trong số hơn hai triệu người Việt hải ngoại vẫn còn bị xem là “thành phần phản động bám theo chân đế quốc”, và trong nước, những quyền căn bản như ngôn luận, đi lại, thờ phụng của người dân vẫn chưa có được, hàng ngàn người yêu nước vẫn còn bị tù đày. Đó là sự thật, không ai tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai.

Sau 37 năm, mấy chục ngàn thân xác thanh niên làm bia đở đạn cho đảng CSVN trong chiến tranh biên giới năm 1979, hàng ngàn xác thanh niên Việt Nam bị đốt cháy thành than trong trận Lão Sơn 1984, hàng trăm xác thanh niên Việt chìm sâu quanh bờ đảo Gạc Ma năm 1988, hàng trăm ngư dân Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi bị bắn thủng ngực, hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thân yêu như đôi mắt Việt Nam bị đã bị kim Trung Quốc tẩm thuốc độc đâm sâu và đang chảy máu. Đó là sự thật, không ai tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai.

Nhìn những gì đang xảy ra trên thế giới đã làm những người Việt đang quan tâm đến vận mệnh đất nước không khỏi cảm thấy thẹn thùng. Dù ban ngày vẫn phải sống bằng thái độ tích cực, trả lời phỏng vấn bằng ngôn ngữ tự tin nhưng ban đêm thế nào cũng gác tay lên trán âm thầm tự hỏi tại sao Liên Xô, Đông Âu cho tới Bắc Phi, Miến Điện nhưng viễn ảnh một Việt Nam tự do, dân chủ, hùng mạnh vẫn còn là một mục tiêu chưa đến. Nỗi lo lắng và niềm đau xót này không phải của riêng ai mà của tất cả người Việt Nam còn biết xót xa, còn biết hổ thẹn trước sự lạc hậu của Việt Nam so với đà tiến quá nhanh của nhân loại.

Một câu hát trong bài Tự Nguyện quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 “nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa Hướng Dương”, chưa bao giờ hơn lúc này Việt Nam cần những người yêu nước biết vươn cao, đứng thẳng như những cành Hướng Dương Dân Tộc. Con người đến và đi nhưng lịch sử Việt Nam như dòng sông không ngừng chảy. Đất nước sẽ vượt qua và lớn lên như đã từng vượt qua và lớn lên sau ngàn năm Bắc Thuộc.
© Trần Trung Đạo

xuong  
#2 Đã gửi : 14/06/2012 lúc 11:23:18(UTC)
xuong

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 8,813

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Chuyện sinh viên VN dưới thời Ba Lan cộng sản
Lời giới thiệu: Le Tan Sitek ra đời tại Trung Quốc năm 1939 trong gia đình có cha mẹ đều là người Việt Nam. Sang Ba Lan năm 1955 theo diện du sinh, tốt nghiệp đại học Kiến Trúc Đại học Bách Khoa Gdansk. Hiện sinh sống tại Na-uy. Cuốn sách mới của bà, “Sama na drodze” (“Một mình trên đường”) mới được ra mắt kể về thời thơ ấu tại làng quê. Bà đang soạn cuốn tiếp theo “Na rozdrożu” (“Giữa ngã ba đường”) kể về những trải nghiệm tại Ba Lan.

Tuần báo Polityka của Ba Lan nói chuyện với bà Lệ Tân Sitek về cuộc sống thường ngày của nữ sinh viên Việt Nam thời Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan do Władysław Gomulka lãnh đạo.

Bản dịch tiếng Việt của Bến Việt

UserPostedImage
Lệ Tân Sitek
Joanna Podgórska: Ba Lan những năm 50 trong mắt thiếu nữ Việt Nam chắc khác lạ vô cùng?

Lệ Tân Sitek: Tôi đặt chân tới Ba Lan cùng nhóm các bạn sinh viên khác. Khi mới tới nơi, có người Ba Lan từng sống 1 năm tại Việt Nam đón chào chúng tôi bằng tiếng Việt. Quả là cử chỉ ý nghĩa khi đặt chân tới miền đất lạ. Tôi đã có cơ hội làm quen với những điều khác lạ trước khi tới Ba Lan. Để tới được Ba Lan, chúng tôi chạy tàu hỏa vượt Siberia. Qua khung cửa sổ tàu hỏa khi đi qua Liên Bang Xô-Viết, chúng tôi thấy sắc màu mùa thu, thật khác với mùa thu Việt Nam. Thời gian ngồi tàu cũng là lúc tôi làm quen với diện mạo người Châu Âu bởi trước đó tôi chưa nhìn thấy mặt người da trắng thế nào. Những ngày đầu đặt chân tới Ba Lan, thử thách lớn nhất lại là ẩm thực. Chúng tôi nhịn đói nhiều ngày.

Thời những năm 50, Ba Lan đâu tới nỗi thiếu thốn đến mức phải nhịn đói đâu nhỉ?

Không tới mức thiếu đói nhưng mà đồ ăn hoàn toàn khác lạ. Tôi không tài nào nuốt nổi bánh mì, khoai tây, sữa vì tôi thấy chúng hoàn toàn vô vị. Có hai món tôi thấy hợp khẩu vị ngay từ đầu là bigos (rau cải muối nấu trộn với thịt vụn –Bến Việt chú thích) và xúc xích bởi chúng cay và có hương thơm. Tôi bị thiếu vị cay, thiếu nước chấm. Xuất thân từ đất nước vừa mới chấm dứt chiến tranh, thiếu lương thực, lẽ ra chúng tôi không được nhiêu khê kén chọn, thế nhưng chúng tôi không thể tự ép ăn và thế là đứa nào cũng bị gày đi. Chúng tôi đề nghị nhà bếp nấu gạo thổi cơm cho chúng tôi. Các bà làm bếp vui lắm khi biết chúng tôi muốn ăn gì. Các bà nấu cơm cho chúng tôi, cho chúng tôi ăn cơm trộn sữa đặc có đường – thật kinh hoàng.

Làm sao chị tới Ba Lan?

Chiến tranh chia cắt tôi và mẹ trong vòng 9 năm liền. Sau 9 năm đó, tôi vất vả để làm quen với cuộc sống chung. Tôi yêu mẹ nhưng khó lòng làm quen với gia đình mới của mẹ. Tôi không muốn sống chung nhưng ngại nói ra điều đó. Thời đó, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều hỗ trợ Việt Nam đào tạo thế hệ trẻ cho những sinh viên phải bỏ học vì chiến tranh hoặc thành phần có công lao. Tôi không nghĩ mình thuộc diện đó. Hồi đó tôi mới 16 tuổi nhưng lại thuộc gia đình có công giành độc lập vì chú ruột của tôi là nhà hoạt động, đã giúp tôi vào nhóm các sinh viên du học. Chú biết là tôi muốn đi.

Lẽ ra chị phải học ngành đóng tàu tại đại học bách khoa Gdansk, đó là lựa chọn của chị?

Làm gì có! Cả nhóm sinh viên chúng tôi được gửi đi học khoa đóng tàu, bởi Ba Lan vốn nổi tiếng ngành đó. Thất vọng vô cùng, bởi tôi không hứng thú với các môn kĩ thuật. Tôi không thể chấp nhận tương lai phải lao động không đúng sở trường. Tôi lên sứ quán Việt Nam để thỉnh cầu họ cho tôi chuyển ngành học khác thế nhưng họ cho đó là việc hoang đường. Tôi có cô bạn cũng ở thế như tôi. Chúng tôi cùng nhau tới gặp trưởng khoa kiến trúc bởi khoa này nằm trong cùng một tòa nhà với khoa đóng tàu. Chúng tôi nói thật hết với thầy trưởng khoa, thỉnh cầu nhận chúng tôi vào học dù chỉ với tư cách sinh viên dự thính. Thầy trưởng khoa thuyết phục chúng tôi rằng chúng tôi sẽ không theo kịp chương trình giảng dạy nhưng cuối cùng thầy đã đồng ý. Trong một năm liền tôi cùng cô bạn theo học hai khoa song song, mà phải dùng chiến thuật làm sao để sứ quán Việt Nam và cả các bạn sinh viên không biết được. Tôi cùng cô bạn thay nhau nghỉ ốm để lén chạy sang khoa kiến trúc, rồi mượn vở của nhau. Cuối năm, chúng tôi phải thú nhận sự thật tại đại sứ quán bởi chúng tôi thi trượt tất cả các môn ở khoa đóng tàu, trong khi đó các môn thi ở khoa kiến trúc thì chúng tôi qua hết.

Khúc mắc tiếp theo xuất hiện khi chị yêu…

Đó là năm thứ tư đại học. Trước đó, tôi cũng để mắt tới các bạn trai nhưng tôi đã tự dạy mình chỉ nhìn họ như ngắm tượng Apollo; không cho phép mình có tình cảm với họ. Nhưng với Ryszard tôi phải chịu thua. Tôi lo sợ bởi ít nhất 1 lần trong năm chúng tôi phải đi dự huấn luyện chính trị, nơi người ta nhắc đi nhắc lại là chúng tôi sang Ba Lan là để học xong đại học rồi trở về phụng sự đất nước, nghiêm cấm không được quan hệ với người nước ngoài.

Nói chung những người như chị bị cấm đoán nhiều điều. Phần lớn thành viên gia đình của chị có công với cách mạng, thế nhưng từ sớm chị đã cảm nhận được rằng chế độ tại Việt Nam có vấn đề.
Cả gia đình tôi đều tham gia chống thực dân, từng bị người Pháp tra tấn, bắn chết và tôi coi sự dấn thân của gia đình là điều hiển nhiên. Thế nhưng tới cải cách ruộng đất, cha của người bạn thân thiết nhất của tôi bị xử tử vì bị coi là địa chủ. Ông bị còng tay còng chân treo lên thanh tre rồi sau đó bị đốt sống. Tôi không đủ can đảm mà nhìn cảnh tượng đó. Chú tôi giải thích với tôi rằng tên địa chủ đó từng thống lãnh đất đai trong huyện, nổi tiếng độc ác dã man. Tôi nói lại, các chú cũng không hơn gì. Tôi yêu chú tôi lắm nhưng khi đó, tôi không còn nhìn mặt chú được nữa.

Trong tôi vẫn còn những cảm xúc đó. Dù gia đình tôi thuộc lớp người tham gia cách mạng nhưng tôi được dạy dỗ trong tinh thần tự do. Tôi được tự do nhiều thứ, được đọc sách tiếng Pháp và làm những gì mình muốn. Cũng bởi thế mà ở Ba Lan tôi chật vật trong việc chấp hành quy định khắt khe từ trên đưa xuống cho nhóm sinh viên chúng tôi. Ví dụ như là không được xem phim tư bản sản xuất. Ấy vậy mà tôi đã lén xem. Tôi từng xem phim có Gerard Philip, Michelle Morgan. Các bạn tôi biết được điều đó và tôi bị kiểm điểm liên tục mỗi tuần họp nhóm. Vịn cớ trả lời kiểm điểm, tôi phải kể lại mọi chi tiết những cuốn phim tôi từng xem.

Tháng 10 năm 1956 là thời điểm Ba Lan được cởi trói. Chị trải nghiệm thời cởi trói thế nào?

Tôi chẳng hiểu gì sất. Tôi tới Ba Lan để theo học, chính trị đã có đại sứ quán Việt Nam lo liệu, họ bảo tôi không cần phải quan tâm hiện tình Ba Lan. Lãnh đạo là Gomulka (1905-1982) Bí thư thứ nhất Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan, tác giả nhiều chiến dịch đàn áp trí thức, văn nghệ sĩ – Bến Việt chú thích) hay không Gomulka, đối với tôi như vô nghĩa. Trong những ngày đi thực tập, tôi trò chuyện cùng các bạn Ba Lan của mình. Họ bảo tôi là bây giờ đã cởi trói rồi. Tôi hỏi lại, cởi trói cái gì, các cậu có thể đi lại tùy ý, ăn nói tùy tiện, vậy cần cởi trói cái gì kia chứ? Có lần họ kể cho tôi nghe chuyện thảm sát Katyn, tôi không tin được – tại sao lại có thể chế ra chuyện hoang đường như vậy, rằng người Nga giết chết binh sĩ Ba Lan ư? Bởi có mình tôi là sinh viên Việt Nam trong khoa kiến trúc nên tôi có cơ hội gần gũi với bạn bè Ba Lan, dỏng tai nghe họ bàn luận, và tôi biết thế nào là sự thật về Ba Lan.

Nhưng sự thật về mối tình của chị với anh Ryszard đã tới tai đại sứ quán Việt Nam. Người bạn sinh viên đã chỉ điểm phải không?

Còn ai khác nữa? Tôi và Ryszard rất thận trọng. Mà tôi đâu có nghĩ sẽ lấy Ryszard làm chồng rồi ở lại Ba Lan vĩnh viễn đâu. Tôi hiểu rằng đất nước sau chiến tranh cần người du học có học thức trở về phụng sự cải tân đất nước. Tôi không hề có ý nghĩ buông xuôi trách nhiệm. Ryszard cũng không ép bởi anh ấy biết tôi gắn bó với Việt Nam nhường nào. Thế nhưng chúng tôi cũng tha thiết muốn sánh đôi. Chúng tôi cùng nhau đi du ngoạn các nước trong khối cộng sản, coi như để có kỉ niệm chung. Có thể ai đó nhìn thấy chúng tôi trên ga tàu, có thể ai đó bắt được thư Ryszard gửi cho tôi ở kí túc xá? Chắc tôi sẽ không bao giờ biết sự thật hồi đó ra sao.

Trưởng nhóm bảo tôi phải đưa hộ chiếu cho ông ấy để gia hạn, tôi rất lo bởi không ai trong nhóm phải làm vậy. Thế rồi họ để tôi yên tới vài tháng. Và họ đã chọn thời điểm thử thách nhất – đúng lễ Phục sinh, khi kí túc xá vắng tanh. Họ chuyển tôi tới Warszawa và cho tôi vào căn hộ dùng làm nhà khách của tòa đại sứ. Tôi chờ phải đối diện với nhân viên đại sứ, sẵn sàng hứa hẹn chấm dứt quan hệ với Ryszard, miễn làm sao được học hết đại học. Tôi không thể ngờ họ sẽ trục xuất tôi về Việt Nam khi chỉ còn 1 năm rưỡi thôi là tôi kết thúc đại học. Họ nhốt tôi 3 ngày chỉ để trong 3 ngày đó họ về Gdansk lấy đồ đạc của tôi. Sáng ra, họ tới hộ tống tôi ra ga tàu để đưa tôi về Moskwa và sau đó Hà Nội. Một sinh viên khác hộ tống tôi, mang theo người vé và hộ chiếu của tôi.

Chị nghĩ sao khi bước lên tàu?

Tôi chỉ hi vọng mặc cả được đôi chút, để có thể kết thúc đại học. Tôi không thể về nước mà không có bằng đại học bởi như vậy thật nhục nhã. Trong cuộc trốn chạy, tôi được biết những điều tuyệt vời nhất về người Ba Lan.

Họ đã giúp chị?

Tất cả đều giúp. Không kể những người tôi từng quen đã bênh vực tôi: các bạn sinh viên, thầy trưởng khoa, cả vị giáo sư mà tôi vô cùng yêu kính đã tới đại sứ quán và bảo nếu sứ quán cho tôi ở lại, ông ấy sẽ đích thân trang trải chi phí học bổng cho tôi. Người đầu tiên tôi gặp khi nhảy tàu xuống Siedlce lại là một cán bộ công an. Ông ta thấy tôi xanh như tàu lá và giống cái xác chết. Ông ấy kiếm nước cho tôi uống rồi đưa tôi về đồn, đi qua cửa phụ vì ở cửa chính là công an trưởng đang nói chuyện điện thoại với toán người hộ tống tôi. Tôi nhờ gọi cấp cứu, nói với bác sĩ rằng tôi bị đau tim và đau dạ dày, cứ cho tôi tới bệnh viện tôi sẽ nói nốt hiện tình mình. Và tôi được cứu thoát nhờ đó. Bác sĩ trưởng khoa, tất thảy các y sĩ bệnh viện đều bênh tôi. Trong ngày, nhân viên đại sứ quán còn tới bệnh viện đòi đưa tôi đi chuyến tàu sau đó. Các y sĩ không chấp thuận. Khi nhân viên sứ quán trở lại cùng binh sĩ để dùng vũ lực đưa tôi đi, các y sĩ viết giấy chứng nhận rằng tình trạng sức khỏe của tôi quá nguy kịch, bắt buộc phải ở lại bệnh viện để theo dõi. Sau đó thì một phụ nữ cũng là bệnh nhân giúp tôi rời bệnh viện tới Gdansk đoàn tụ với Ryszard.

Gần như chính Gomulka đã cho giấy phép để anh chị cưới nhau.

Tình thế của tôi khi đó thật nguy nan. Có ai ngờ giữa Việt Nam và Ba Lan còn có hiệp ước cấm công dân hai nước cưới nhau. Hộ chiếu và tất cả các giấy tờ của tôi bị đại sứ quán giữ. Nhà trường, rồi Hội Sinh Viên Ba Lan can thiệp đều không ăn thua. Không còn lối thoát, tôi đích thân tới Trung ương Đảng Công Nhân Thống Nhất và tiếp cận được với một nhân viên thân cận của Gomulka. Tôi thuận lại tình trạng của mình, họ gọi Ryszard tới nói chuyện và cuối cùng, họ cho tôi giấy tờ Ba Lan cùng giấy phép cưới chồng. Câu chuyện nhỏ mà cuối cùng tiếng tăm khiến nó bị xé thành lớn. Tháng 6 năm 1962 chúng tôi cưới nhau và một năm sau, con trai đầu lòng của chúng tôi ra đời.

Tại sao anh chị lại quyết định di cư tới Na-Uy?

Gia đình chồng tôi ở bên Na-Uy hết, còn tôi thì bị cắt đứt liên hệ với thế giới của tôi. Có lần tôi nói với chồng: anh à, em muốn chúng ta đi đâu tới nơi mà chỉ có hai ta thôi, cách xa cả hai cõi bờ.
© Polityka và Bến Việt

Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.334 giây.