3. Quả thật có việc mất nước dựa vào căn bản gắn bó tình cảm và hiện hữu vật chất khi mìền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản.
Sau khi cố chứng tỏ Nam Việt Nam không phải là nước hoặc quốc gia và phe cộng sản Việt Nam không xâm lăng miền Nam
Việt Nam, ông Vũ kết luận là không có việc mất nước vì không có nước để mà mất. Một cách đáng kể, trong khi ông cố hết
sức để cho thấy dự tính thống nhất của VNCH, ông Vũ chỉ kết luận đơn giản là không có việc mất nước như thể đó là chuyện
hiển nhiên. Điều này cho thấy sự kém hiểu biết của ông Vũ về khái niệm của mất mát, ngay cả cho ý nghĩa thông thường.
Theo định nghĩa, mất mát là kết quả của việc không thể giữ hoặc không thể tiếp tục có cái gì hoặc trải qua việc có cái gì bị lấy
đi hoặc bị tiêu hủy. Đối với đa số người miền Nam, nước Nam Việt Nam bị mất khi phe cộng sản miền Bắc xâm lăng và chiếm
đóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho dù Nam Việt Nam không phải là quốc gia và chỉ có toàn thể
Việt Nam là quốc gia, như ông Vũ khẳng định, người dân miền Nam Việt Nam vẫn có thể có cảm tưởng mất mát khi toàn thể
quốc gia Việt Nam rơi vào tay cộng sản.
Cảm tưởng mất mát được dựa vào: sự gắn bó tình cảm và sự hiện hữu vật chất.
a. Mất nước hàm ý sự hư hại đến gắn bó tình cảm với đất nước bây giờ đang ở dưới chế độ không xứng đáng, và không nhất
thiết dính líu đến sự thiếu vắng hoặc biến mất của một hiện hữu vật chất.
Mất mát thường được liên kết với sở hữu, thu thập, cảm giác thuộc về, hoặc thương yêu. Bạn mất tiền, xe hơi, xe gắn máy,
nhà, việc, bình tĩnh, người thương yêu, v.v. Cái hoặc người bạn mất có thể hoặc không ngừng hiện hữu. Nếu nhà bạn bị tiêu
hủy hoàn toàn vì hỏa hoạn, bạn mất nhà và căn nhà bạn không còn nữa. Tuy nhiên, giả sử bạn không còn tiền để trả tiền nợ
nhà, nhà băng tịch thu lại và bán cho người khác. Bạn mất nhà nhưng căn nhà đó vẫn hiện hữu; chỉ có điều là nó thuộc về chủ
mới.
Khi ta nói về mất mát cái gì hoặc người nào, ta có thể nói đến cái đó hoặc người đó như là một thực thể vật chất, nhưng sự
mất mát có thể hàm ý sự hư hại cho một niềm gắn bó tinh thần hay tình cảm. Sự gắn bó tình cảm vẫn có thể còn, nhưng đối
tượng cho sự gắn bó đó có thể không còn trong tầm với, kiểm soát, cảm tưởng thuộc về, hoặc sở hữu. Ta, do đó, có cảm
tưởng mất mát và thương tiếc những kỷ niệm liên quan đến cái đó hoặc người đó. Khi bạn mất nhà vì bạn không có đủ tiền trả
tiền nợ nhà, bạn vẫn thương yêu căn nhà bạn và vẫn có thể thấy nó mỗi khi bạn đi ngang qua, nhưng bạn không thể sống trong
căn nhà đó. Bạn có cảm tưởng mất mát và thương yêu những kỷ niệm sống trong căn nhà. Cảm tưởng mất mát lại còn gia
tăng hơn nếu chủ nhà mới phá hủy những gì bạn coi là thiêng liêng hoặc quý báu. Bạn đau lòng khi chủ mới bán vườn sau nhà
cho người hàng xóm, bê trễ tưới nước cho vườn hoa từng đẹp đẽ và cây cối, hoặc không màng đến chăm sóc thảm cỏ trước
nhà.
Tương tự, mất nước không hàm ý nước đã bị tiêu hủy, ngừng hiện hữu, hoặc bị xóa bỏ trên bản đồ thế giới. Khi người miền
Nam Việt Nam, hải ngoại hay trong nước, nói họ mất nước, cái họ có ý nói là nước Nam Việt Nam không còn trong tầm với,
kiểm soát, hoặc cảm giác thuộc về bởi vì nó đã bị chiếm đóng, kiểm soát, và cai trị bởi những người không xứng đáng và
không có cùng các lý tưởng và giá trị như họ. Lòng yêu thương nước họ vẫn còn, nhưng họ có cảm tưởng mất mát vì nhóm
người cầm quyền ngược đãi và lạm dụng dân và lãnh thổ, và hủy hoại những giá trị quí trọng với họ, như nhân quyền, tự do, và
dân chủ.
Khái niệm trên về mất nước là khái niệm căn bản. Hầu như ai cũng biết. Kỳ lạ thay, ông Vũ dường như không biết, hoặc ông
biết nhưng bỏ qua. Thay vào đó, khi lý luận rằng nước không bị mất, ông viết, "Thực vậy, cho đến nay Việt Nam vẫn có tên
trên bản đồ thế giới, là thành viên Liên Hiệp Quốc, có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong đó có Hoa Kỳ, cho dù lãnh thổ
đã bị Trung Quốc chiếm nhiều nơi, nhất là ở biển Đông."
Quái lạ là ông Vũ dựa vào các yếu tố như tên trên bản đồ thế giới và liên hệ ngoại giao với các nước khác là bằng chứng cho
sự hiện hữu của một nước hay quốc gia, nhưng lại chối bỏ Nam Việt Nam là một nước hay quốc gia mặc dù trước ngày 30
tháng 4 năm 1975 Nam Việt Nam rõ ràng có tên trên bản đồ thế giới và có liên hệ ngoại giao với nhiều nước kể cả Hoa Kỷ,
như đã thảo luận ở trên. Cái yếu tố duy nhất mà Nam Việt Nam (và cả Bắc Việt Nam) không có là thành viên trong LHQ. Nhưng
nếu đó là ý ông Vũ, nghĩa là thành viên trong LHQ là điề̀u kiện duy nhất, hoặc quan trọng nhất, cho việc là quốc gia, thì theo
như ông, Thụy Sĩ không là một quốc gia cho tới năm 2002 khi Thụy Sĩ trở thành thành viên LHQ. Đó rõ ràng là một kết luận
không thích đáng. Quan trọng hơn, như thảo luận trên, ông Vũ mâu thuẫn với chính ông khi ông khẳng định Bắc Hàn và Nam
Hàn là hai quốc gia hoặc nước trong chiến tranh từ 1950 tới 1953, mặc dù cả Bắc Hàn lẫn Nam Hàn đều không là thành viên
LHQ cho tới năm 1991.
b. Mất nước cũng hàm ý không có hiện hữu vật chất khi nước Nam Việt Nam bị phe cộng sản miền Bắc chiếm đóng
Trong khi đa số người miền Nam Việt Nam nói đến mất nước với ý nghĩa tinh thần và tình cảm, cũng có người nói đến nó là sự
thiếu thốn hiện hữu vật chất. Nhưng sự hiện hữu vật chất này không liên hệ đến đất đai, núi non, sông ngòi, biển cả, đảo, v.v.
Thay vì vậy, nó liên hệ đến các khái niệm cụ thể về chủ quyền tài sản, quyền lợi, và các giá trị có biểu hiện cụ thể (thí dụ như
quốc kỳ VNCH và quốc ca). Chữ "nước" trong "mất nước" hàm ý quốc gia có chủ quyển Nam Việt Nam, hoặc VNCH. Như
thảo luận trên, VNCH là một nước hay quốc gia có chủ quyền, không những chỉ với người nước ngoài, mà còn hơn thế nữa với
những công dân trước đây của Nam Việt Nam.
Sự hiện hữu vật chất gồm có thẩm quyền cụ thể or quyền lực kiểm soát dân và lãnh thổ, sở hữu tài sản, và nhiều nữa. Cộng
sản Việt Nam tấn công và chiếm đóng Nam Việt Nam bằng lực, lấy đi thẩm quyền và quyền lực, đặt sở hữu trên tài sản, tư và
công. Đối với nhiều người Nam Việt Nam, mất nhà, đất đai, tài sản, tự do, khả năng bầu người đại diện trong việc quản trị
nước, và các giá trị khác giống y như mất nước.
Tóm lại, quả thật có việc mất nước đối với người miền Nam Việt Nam, cho dù cảm tưởng mất mát này là tinh thần hay vật chất.
4. Ngày 30 tháng 4 là và lúc nào cũng sẽ là ngày quốc hận ngay cả sau khi chế độ cộng sản bị sụp đổ
Ta hãy trước hết giải quyết vài vấn đề về định nghĩa và dịch. Ý nghĩa của từ ngữ "quốc hận" quan trọng vì nó phản ảnh tâm
trạng của người miền Nam, hải ngoại hay trong nước, về sự mất mát của quốc gia có chủ quyền VNCH. Ngoài ra, nó cũng
phản ảnh thích đáng sự tưởng niệm ngày cuối cùng của quốc gia có chủ quyền VNCH và khởi đầu của giai đoạn đen tối nhất
trong lịch sử Việt Nam. Tôi muốn nhấn mạnh là quốc gia có chủ quyền VNCH sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhưng
VNCH vẫn còn sống và phát huy mạnh mẽ là một nước, tuy bị chiếm đóng, và là một dân tộc, và sẽ trở thành quốc gia có chủ
quyền lần nữa với toàn thể Việt Nam là lãnh thổ khi chế độ cộng sản sụp đổ trong tương lai rất gần.
a. Từ ngữ "ngày quốc hận" nên được dịch là "national day of hatred" vì nó mô tả chính xác nỗi căm hờn sâu đậm đối với cộng
sản Việt Nam cho những gì chúng làm với Việt Nam.
Từ ngữ tiếng Anh "National Day of Hatred" là từ ngữ dịch sát nghĩa cho tiếng Việt "Ngày Quốc Hận." Nên để ý là "National Day
of Hatred" theo đúng tiếng Anh hơn "National Hatred Day." Các từ ngữ dịch khác gồm có "National Shame Day" (hoặc
"National Day of Shame") (Nguyen and Haines 1996, 320), "National Anger Day" (hoặc "National Day of Anger"), "National Day
of Anger" (Trần Văn Tích), "Day of National Resentment," và "Day of Commemoration" (DiMaggio and Fernandez-Kelly 2010,
213).
Trong tiếng Việt, chữ "quốc" có nghĩa "country" hay "nation." (Tôi sẽ thảo luận chi tiết hơn về định nghĩa của các chữ này trong
bài kế tiếp.) Dùng là tính từ, "quốc" có nghĩa "national." Chữ "hận" hơi phức tạp hơn. Khi dùng một mình, nghĩa đen của nó
gồm có "hatred," "resentment," "acrimony," "hostility," hoặc "animosity." Chữ "hận" cũng có thể được dùng là chữ phụ cho từ
ngữ "ân hận" có nghĩa "regret," "repentance," hoặc "remorse." Tuy nhiên, từ ngữ "ân hận" ít khi được dùng với dạng thu ngắn
thành một chữ "hận." Do đó, ta có thể dẹp ý nghĩa này sang một bên.
Chữ "hận" cũng có thể được dùng với chữ "thù" để thành chữ kép "thù hận" hay "hận thù." Tuy chúng có thể được dùng trong
chữ kép, "hận" và "thù" có thể được dùng riêng rẽ với ý nghĩa tương tự. Cả "hận" lẫn "thù" đều hàm ý một sự thù ghét, căm
hờn sâu đậm, nhưng chúng có chút khác biệt tinh tế. Sự khác biệt tinh tế này khó giải thích, ngay cả với người Việt. Vài thí dụ
có thể giải thích việc này. "Thù," khi được dùng với một chữ chỉ người ("kẻ"), một nhóm người như lính ("quân"), một phe đảng
("phe"), có nghĩa "enemy." Thí dụ, "kẻ thù," "quân thù," "phe thù." Trong nội dung này, "thù" thường được dùng với chữ
"nghịch" hay "địch" có nghĩa "adversary" hay "opponent" (đối phương, đối thủ, đối nghịch). Do đó, "thù" hàm ý một sự căm
hờn sâu đậm rõ rệt, cụ thể, minh bạch cho một hành động được sẵn sàng công nhận là gây ra giận dữ, đau buồn, và thống
khổ cho một người. Mặt khác, "hận" không bao giờ được dùng với "kẻ," "quân," hoặc "phe" để chỉ enemy. "hận" hàm ý một cái
gì tiểm tàng hơn, trừu tượng hơn, nhưng vẫn có nỗi căm hờn sâu đậm. Một phụ nữ có thể "hận" người tình vì hắn bỏ cô đi theo
một cô trẻ hoặc đẹp hơn. John có thể "hận" Steve vì không những Steve lấy cả mọi tài sản giàu có của John mà còn lấy luôn
cả tình thương yêu của con cái John. Linda có thể "hận" David vì không những David giết cha mẹ cô, mà còn đào mồ mả tổ
tiên Linda. Do đó, "hận" hàm ý một nỗi căm hờn, thù ghét sâu đậm, sắc bén, và hạn hẹp cho một hành động không những tạo
ra giận dữ, đau thương, và cay đắng cho một người mà còn đụng chạm đến tình thương yêu cá biệt hoặc kho tàng thiêng liêng
của người đó.
Trong bối cảnh những gì đám cộng sản Việt Nam đã làm với người Nam Việt Nam nói riêng, và người dân Việt nói chung, và
trong ý nghĩa rộng rãi hơn, với tổ quốc Việt Nam, chữ "hận" là chữ thích hợp nhất.
Ta nên ghi chú là một chữ khác có thể dùng với chữ "thù" là "ghét." Hai chữ này có thể được dùng chung ̣để thành chữ ghép
"thù ghét" (nhưng không bao giờ "ghét thù"). Động từ "ghét" có nghĩa "hate" hoặc "dislike." Cường độ của nó kém hơn "hận"
hoặc "thù" rất nhiều và do đó không nên được dùng trong bối cảnh căm hờn hoặc thù sâu đậm.
Vì những ý nghĩa trên, "hận" không nên được dịch sang tiếng Anh là "anger" (giận dữ) hoặc "shame" (nhục nhã) mặc dù
"anger" hoặc "shame" có thể chỉ những khía cạnh khác của "hận." Chữ đơn độc tiếng Anh hay nhất cho "hận" là "hatred" vì chữ
đó ngắn gọn và dễ hiểu.
b. Qua việc coi ngang "quốc hận" với "mất nước," ông Vũ tầm thường hóa nỗi căm hờn sâu đậm và hận thù của dân Việt Nam
đối với chế độ cộng sản.
Ông Vũ khai triển các lý luận về vấn đề Nam Việt Nam không phải là một nước hoặc quốc gia qua chính các hiến pháp và dự
tính thống nhất. Đây có vẻ là trọng tâm của lý luận ông vì ông kết luận không có việc mất nước và không có Ngày Quốc Hận chỉ
trên căn bản này thôi. Ông viết, "Cũng như vậy, không thể gọi ngày 30 tháng 4 là 'Ngày Quốc hận' vì đã không có chuyện 'mất
nước' vào ngày đó." Thật đáng kể là ông Vũ quá đơn giản hóa vấn đề qua việc coi ngang ý nghĩa của "quốc hận" với "mất
nước."
Qua việc nói rằng vì không có việc mất nước, nên không nên có quốc hận, ông Vũ hàm ý mất nước là lý do duy nhất cho nỗi
quốc hận của người miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay sau câu khẳng định này, ông Vũ viết, "Mặc dầu vậy, không thể phủ
nhận oán hận của những người Việt từng phục vụ chính thể Việt Nam Cộng hòa và gia đình họ đối với chính quyền cộng sản
Việt Nam là vô cùng lớn. Vậy đâu là nguyên nhân?" Nói cách khác, ông Vũ thừa nhận quả thật có sự oán ghét của người miền
Nam với chế độ cộng sản hiện tại, nhưng ông không coi sự oán ghét này liên hệ tới ngày 30 tháng 4 năm 1975. Như được
phân tích ở phần đầu bài này, câu này mở đầu cho phần thứ nhì bài luận ông Vũ. Ông Vũ rõ ràng tách rời hai phần qua việc
tách "quốc hận" trong "ngày quốc hận" ra khỏi "nỗi oán hận của người Nam Việt Nam đối với chế độ cộ́ng sản hiện tại."
Ta có thể bác bỏ kết luận của ông Vũ rằng không có ngày quốc hận bằng cách chứng minh Nam Việt Nam quả thực là nước
hay quốc gia và quả thật có việc mất nước khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Nam Việt Nam, như tôi đã làm ở trên. Tuy
nhiên, có việc hay hơn là chỉ bác bỏ lý luận của ông Vũ. Bác bỏ kết luận của ông Vũ trên căn bản sự sai trái của nó thì hữu ích
hơn.
Ông Vũ đồng ý việc dân miền Nam Việt Nam oán hận chế độ cộng sản, nhưng ông lại chối bỏ việc oán hận này liên hệ đến
ngày 30 tháng 4. Ông Vũ dường như nói rằng không có liên hệ hai việc này vì ngày quốc hận kỷ niệm một ngày đặc biệt, đánh
dấu sự sụp đổ của chế độ VNCH, trong khi nỗi oán hận của người miền Nam Việt Nam đối với chế độ cộng sản hiện nay là kết
quả của nhiều năm hận thù đối với cách đối xử của chính quyền cộng sản xảy ta nhiều năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Quan điểm này sai lầm. Hai sự kiện này thực ra có liên hệ chặt chẽ qua ngày 30 tháng 4. Nếu quốc gia có chủ quyền VNCH
không sụp đổ, thì sẽ không có việc cộng sản Việt Nam lộ nguyên hình là những kẻ tội phạm, phản bội Tổ quốc, áp bức hung
bạo, và gian xảo.
Như tôi đã thảo luận trong bài trước về ý nghĩa lá cờ vàng của VNCH (Cao-Đắc 2014), tuyên truyền cộng sản luôn luôn nói
rằng người miền Nam Việt Nam chống cộng, nhất là những cựu chiến sĩ VNCH, oán hận cộng sản Việt Nam vì họ (người miền
Nam Việt Nam) thua trong cuộc chiến. Bằng cách mô tả những cựu chiến binh VNCH là những người thua trận cay cú, cộng
sản Việt Nam cố tầm thường hóa nỗi căm hờn và oán hận mạnh mẽ đối với chế độ cộng sản.
Thua cuộc chiến không bao giờ là lý do cho nỗi oán hận của người Việt đối với phe thắng trong lịch sử Việt Nam và lại còn hơn
thế nữa với người miền Nam Việt Nam sau tháng tư năm 1975. Lịch sử Việt Nam cho thấy mặc dù có nhiều cuộc nội chiến
hàng nhiều thế kỷ, từ chiến tranh mười hai sứ quân vào thế kỷ thứ 10 tới cuộc chiến nhà Trịnh và nhà Nguyễn vào thế kỷ 17 và
18, và nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, dân Việt luôn luôn sống hòa thuận với nhau sau đó.
Ngoài ra, số cựu chiến binh VNCH chỉ là số ít lúc ban đầu và đã suy giảm rất nhiều sau 40 năm. Những người bây giờ còn
sống đang ở tuổi sáu mươi, bảy mươi, và tám mươi. Đa số muốn sống cuộc sống thanh bình. Nhiều người Việt chống cộng là
hậu duệ của thế hệ thứ nhất của người miền Nam Việt Nam và họ không có trí nhớ hoặc kinh nghiệm về chiến tranh Việt Nam.
Người miền Nam chống cộng oán hận chế độ cộng sản không phải vì miền Nam Việt Nam thua trong cuộc chiến, nhưng vì
cộng sản đối xử người Việt, Bắc hay Nam, với sự tàn nhẫn, tàn bạo, và áp bức. Quan trọng hơn, chế độ cộng sản cướp người
dân, dung dưỡng tham nhũng, phá hại luân lý trong xã hội, phá hủy nền văn hóa, làm hư hại đất đai, phản bội tổ quốc, âm mưu
bán nước cho Tàu cộng, tiêu hủy trí óc tuổi trẻ, lừa gạt dân với dối trá và giấu giếm, và phạm nhiều tội ác với nhân dân.
Ngày Quốc Hận không có tên đó ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Phải qua nhiều năm trước khi các cộng đồng NVHN
quanh thế giới trở nên ổn định trong xứ sở mới của họ. Sự tưởng niệm ngày 30 tháng 4 là Ngày Quốc Hận đã trở thành ngày
càng kỹ lưỡng và hoàn chỉnh và có ý nghĩa khi càng có nhiều bằng chứng tội ác của ĐCSVN được biết vạch trần. Vào ngày
đó, có diễn hành cho thấy các hoạt động và niềm hãnh diện của NVHN, hội họp tố cáo tội ác ĐCSVN với diễn văn và hình ảnh,
các lễ tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân cộng sản và những người hy sinh cho tự do dân chủ, và các chương trình văn
hóa khác.
Bằng cách nói rằng vì không có việc mất nước, không nên có ngày quốc hận, ông Vũ dường như nghĩ rằng các cộng đồng
NVHN kỷ niệm ngày 30 tháng 4 là Ngày Quốc Hận vì ngày đó đánh dấu ngày cuối cùng của VNCH. Tuy ngày 30 tháng 4 quả là
ngày quốc gia có chủ quyền VNCH sụp đổ, ngày 30 tháng 4 được gọi là Ngày Quốc Hận không phải chỉ vì biến cố này. Nó
được gọi vậy chính yếu là vì nó đánh dấu khởi đầu của giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, tuy quốc gia có
chủ quyền VNCH sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, nước và dân tộc VNCH không bị hủy diệt. Trái lại, như tôi sẽ thảo
luận trong một bài kế tiếp, VNCH vẫn sống và phát huy mạnh mẽ là một nước, tuy bị chiếm đóng, và một dân tộc.
Nếu sau sự sụp đổ của quốc gia có chủ quyền VNCH, ĐCSVN mang nước Việt Nam tới thịnh vượng, đối xử người dân với
lòng kính trọng và nhân phẩm, tôn trọng nhân quyền và dân quyền, tôn trọng tự do và dân chủ thực sự, làm giảm tham nhũng,
và hành xử với lòng can đảm đối với Tàu cộng, thì ngày 30 tháng 4 không bao giờ được gọi là Ngày Quốc Hận. Thực ra, dưới
cảnh đó, chắc là nhiều NVHN sẽ nhiệt tình trở về Việt Nam để tham gia trong việc tái dựng quốc gia.
Mọi quốc gia trên thế giới đều hiểu rõ khái niệm của ngày quốc hận là ngày tưởng niệm sự khởi đầu của một giai đoạn nhục
nhã, giận dữ, hoặc đen tối. Từ ngữ "Ngày Quốc Hận" cũng đã từng được dùng để kỷ niệm "những hành động tàn bạo của chế
độ Khmer Đỏ cai trị nước trong 1975-1979"(Wikipedia 2015e). Từ ngữ "quốc hận" cũng đã được dùng để mô tả một biến cố
lịch sử nào đó như nỗi thù hận của Tàu cộng đối với Nhật trong chiến tranh Tàu - Nhật, nhất là biến cố năm 1937 được biết
đến là Cuộc Thảm Sát Vĩ Đại Nam Kinh (Chen 2010, 583; Yim 2013).
Sau 40 năm, ĐCSVN đã phá hủy đất nước và người dân Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 quả thật là ngày đánh dấu giai đoạn đen
tối nhất trong lịch sử Việt Nam. Do đó, ngày 30 tháng 4 được thích đáng gọi là Ngày Quốc Hận, cho dù sau này đất nước dẹp
ĐCSVN và trở thành trù phú.
C. Kết LuậnBài này bác bỏ phần đầu bài luận của Cù Huy Hà Vũ. Phần này đầy rẫy những sai lầm về đủ mọi khía cạnh, từ tiền đề, lý luận,
và kết luận. Cái tiền đề về xâm lăng chỉ dính líu đến quốc gia là tiền đề sai lầm. Ngoài ra, lý luận của ông rằng Nam Việt Nam
không phải là một nước hay quốc gia tự mâu thuẫn, là một ngụy biện, và sai lầm dưới tiêu chuẩn khách quan. Quan trọng hơn,
kết luận của ông Vũ rằng không có việc mất nước và ngày 30 tháng 4 không nên là ngày quốc hận cho thấy sự kém hiểu biết
của ông về cảm xúc mất mát và nỗi oán hận đối với chế độ cộng sản hiện nay của NVHN và dân Việt sống tại Việt Nam.
Ông Vũ lẽ ra có thể viết được một bài mạnh mẽ và có sức thuyết phục hơn nếu ông sửa đổi phần đầu và liên kết nó với phần
sau theo luận lý. Ông lẽ ra có thể lý luận rằng cuộc xâm lăng của cộng sản Việt Nam vào miền Nam Việt Nam quả thật lấy đi
tinh thần tự do và dân chủ của VNCH và gây ra cảm xúc mất nước to tát cho người miền Nam Việt Nam. Do đó, ngày 30 tháng
4 phải là Ngày Quốc Hận vì không những ngày đó đánh dấu thích đáng sự sụp đổ của quốc gia có chủ quyền VNCH mà còn là
sự khởi đầu của giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam như được cho thấy qua bằng chứng của sự tàn ác do cộng sản
đặt lên người miền Nam Việt Nam ngay sau cuộc chiến và sự áp bức của toàn thể dân Việt từ ngày đó. Do đó, việc giải thể
ĐCSVN là giải pháp hữu hiệu nhất để mang thịnh vượng tới Việt Nam và để làm mạnh mẽ thêm lòng yêu thương trong người
dân Việt, từ Nam ra Bắc, mặc cho các nỗ lực chính quyền chia rẽ người dân và xuyên tạc lịch sử.
Cao-Đắc Tuấn
________________
Tài liệu tham khảo:
Bennett, Bo. Không rõ ngày. Logically Fallcious. Không rõ ngày.
http://www.logicallyfall...ex.php/logical-fallacies (truy cập 1-6-2015).
Cao-Đắc, Tuấn. 2014. Ý nghĩa lá cờ vàng của người Việt hải ngoại. 23-12-2014.
http://danlambaovn.blogs...a-nguoi-viet-hai_23.html (truy cập 31-5-2015).
Chen, Kuan-Hsing. 2010. Paik Nak-chung’s theory of overcoming ‘division system’: rethinking the China–Taiwan relation with
reference to the two Koreas. Inter-Asia Cultural Studies, Volume 11, Number 4, 566-590.
http://www.tandfonline.c...080/14649373.2010.506779 (truy cập 31-5-2015).
Constitute. 2015. Korea (Republic of)'s Constitution of 1948 with Amendments through 1987. 11-3-2015.
https://www.constitutepr...public_of_Korea_1987.pdf (truy cập 30-5-2015).
Cù Huy Hà Vũ. 2015. Tự do sẽ chấm dứt hận thù dân tộc. 14-5-2015.
http://www.voatiengviet....thu-dan-toc/2767507.html (truy cập 26-5-2015).
DiMaggio, Paul and Fernandez-Kelly, Patricia. 2010. Art in the Lives of Immigrant Communities in the United State. Rutgers
University Press, Piscataway, NJ. U.S.A.
History. Không rõ ngày. Sept 18, 1964. North Vietnamese Army begins infiltration. Không rõ ngày.
http://www.history.com/t...army-begins-infiltration (truy cập 8-6-2015).
Nguyen, Hung Manh and Haines, David W. 1996. Vietnamese. Chapter 14 in “Refugees in America in the 1990s: A
Reference Handbook,” by David W. Haines (Ed.). Greenwood Press, Westport, Connecticut, U.S.A.
Olsen, Mari. 2006. Soviet-Vietnam Relations and the Role of China, 1949-64: Changing Alliances. Routledge, New York, NY,
U.S.A.
Sorley, Lewis. 1999. A Better War. Hartcourt, Inc. Orlando, Florida. U.S.A.
Trần Nhật Kim. 2015. 30 tháng 4 Là Ngày Quốc Hận của Dân Tộc. 4-2015.
http://hon-viet.co.uk/Tr...NgayQuocHanCuaDanToc.htm (truy cập 31-5-2015).
Trần Văn Tích. Không rõ ngày. Ngày Quốc Hận "in English". Không rõ ngày. Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y.
http://svqy.org/2013/5-2013/ngayquochan.html (truy cập 31-5-2015).
Wikipedia. 2015a. Invasion. 18-5-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Invasion (truy cập 28-5-2015).
_________. 2015b. Constitution. 5-6-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Constitution (truy cập 6-6-2015).
_________. 2015c. List of former sovereign states. 28-5-2015.
http://en.wikipedia.org/...gn_states#Southeast_Asia (truy cập 29-5-2015).
_________. 2015d. South Vietnam. 27-5-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/South_Vietnam (truy cập 31-5-2015).
_________. 2015e. Day of Remembrance (Cambodia). 20-5-2015.
http://en.wikipedia.org/...membrance_%28Cambodia%29 (truy cập 31-5-2015).
_________. 2015f. Easter Offensive. 8-6-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Easter_Offensive (truy cập 8-6-2015).
Yim, Tsz Kwan. 2013. China’s Reinterpretation of Nanjing Massacre1937. 2-12-2013.
https://ccpc.asian.lsa.u...ion-of-nanjing-massacre/ (truy cập 31-5-2015).