Chương trình 20/20 với bà Diane Sawyer của đài ABC NEWS, phát sóng tối Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2016, có cuộc
phỏng vấn đặc biệt bà mẹ đau khổ, mẹ của Dylan Klebold, một trong hai tay súng đã gây ra cuộc thảm sát đẫm
máu xảy ra vào ngày 20 tháng 4 năm 1999, tại trường Columbine High, thành phố Littleton, Colorado, lấy đi sinh
mạng của 12 học sinh, một thầy giáo, làm bị thương 24 người khác trước khi quay súng vào đầu tự kết liễu đời
mình.
Đây là lần đầu tiên kể từ biến cố kinh hoàng gây chấn động toàn quốc ấy, bà Sue Klebold, mẹ của Dylan Klebold,
lên tiếng nhân dịp bà cho trình làng tập ký sự có nhan đề: “A Mother's Reckoning: Living in the Aftermath of
Tragedy,” tạm dịch là: “Suy nghiệm của một bà mẹ phải sống với hậu quả của tấn thảm kịch.” Tất cả lợi nhuận thu
được từ việc phát hành sách sẽ được sung vào quỹ nghiên cứu từ thiện tập trung cho các vấn đề tâm thần.
Dáng vẻ thanh mảnh, mái tóc bạc trắng, nét buồn thương đọng trong ánh mắt chưa hết ngơ ngác, bà kể: “Sau tai
họa bất ngờ giáng xuống, tôi không bao giờ ngưng nghĩ về các nạn nhân trong vụ và gia đình họ. Tôi ngồi đó, đọc
các bài viết về họ, nghĩ ngợi nếu như hoàn cảnh thay đổi, khiến con tôi bị một đứa trong số các trẻ không may kia
bắn chết, chắc chắn tôi cũng ở trong tâm trạng của các bậc cha mẹ này thôi!”
Bà nói tiếp: “Chưa bao giờ có một ngày trôi qua mà tôi không nghĩ về các nạn nhân đã bị con tôi gây hại.” (bà
dùng chữ “harm”) Đến đây, bà Diane Sawyer ý nhị hỏi lại: “Bà chỉ nói là ‘gây hại’ thôi ư?”
Người mẹ khốn khổ trả lời: “Tôi cảm thấy có chút dễ dàng khi dùng chữ này thay vì hai chữ “giết hại” dù rằng quả
tình đã chẳng có một lúc nào tôi không đau buồn kể từ khi biến cố xảy ra. Kinh khủng vô cùng khi cứ phải sống với
sự thật là đứa con mình chăm chút nuôi dạy với tình thương yêu mà lại giết người một cách tàn bạo như vậy!”
Bà Klebold thú nhận trước khi vụ Columbine xảy ra, bà luôn thấy mình là một trong số các bà mẹ tin chắc không có
điều gì sai trái nơi đứa con mà mình không sớm nhận biết. Tiếc thay, thảm kịch đã phá vỡ niềm tin ấy. Bà tâm sự
tiếp: “Tôi thường nghĩ tình thương yêu và sự cảm thông giữa mẹ con là những yếu tố bảo đảm an toàn. Nếu có
điều gì sai quấy nơi các con, tôi phải biết. Thực tế là tôi không biết gì cả và một bà mẹ trong hoàn cảnh tôi, làm
sao có thể sống được với sự thật này? Tôi tưởng tôi là một bà mẹ đủ tốt để cho con tôi có thể nói với tôi bất cứ
một điều gì. Cho nên tôi choáng váng khi biết ra những gì tôi xác tín với chính mình, khư khư sống với chúng, về tư
cách làm cha mẹ của tôi, thực tế chỉ là do tôi tưởng tượng trong đầu thôi! Con tôi có một thế giới riêng của nó,
hoàn toàn khác.”
Dường như không chỉ riêng bà Klebold trải qua kinh nghiệm buồn bã này mà có thể nói tuyệt đại đa số nhân gian
đã và đang hàng ngày luôn tưởng mình biết rõ người bên cạnh: cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em, bạn đồng
nghiệp, người tình... như biết rõ con đường đi về nhà, đi đến chỗ làm việc hay đến nơi hẹn hò; như biết rõ đường
chỉ tay trong bàn tay mình; thậm chí, như biết rõ trong túi áo mình có hay không có cái gì? Chả thế mà một nhà thơ
tiền chiến đã viết: Đường êm quá, ai đi mà nhớ ngó, đến khi hay, gai nhọn đã vào chân. Thế giới bên trong con
người vi tế và uyển áo, là một vũ trụ thu nhỏ với nhiều bí ẩn không bao giờ khám phá hết. Nó khác hẳn ngoại hình
với cấu trúc và y phục, căn bản, xem ra không khác nhau là mấy giữa người này, người kia và nếu có khác thì cũng
dễ nhận biết hoặc đánh giá. Trong mắt bà Klebold, cậu Dylan là đứa con bà vẫn nhìn thấy hàng ngày, cũng giống
các anh em khác của nó, có thể hay hoặc dở hơn tí chút, là cái hình ảnh bà giữ trong đầu với kỳ vọng của chính bà
về cậu từ khi lọt lòng rồi lớn dần theo thời gian, trở thành một chàng trai thanh lịch với mái tóc vàng gội chải sạch
sẽ, nụ cười tươi tắn và đôi mắt dấu sau cặp kính đen thời trang rất hợp với khuôn mặt. Cái hình ảnh ấy luôn chói
lòa trong tâm trí bà, ngăn tầm mắt không cho bà nhìn đúng để có thể lưu ý sự biến dạng của nó do ngoại cảnh tác
động, chưa kể tâm lý cầu an của mỗi bà mẹ nhiều khi từ chối những cơ hội thử thách, dù bộc lộ rõ nhưng bà
không muốn tin.
Cùng tâm trạng này, người thân trong gia đình cậu Seung-Hui Cho đã bỏ qua những dấu hiệu báo động đáng quan
ngại về sức khỏe tâm thần của cậu bắt đầu từ thơ ấu, bằng lòng với sự chạy chữa có tính cách giai đoạn cho tới
buổi sáng ngày 16 tháng 4 năm 2007, khi cậu bất thần nã súng vào khuôn viên trường đại học Virginia High Tech,
sát hại 32 nhân mạng, làm bị thương 17 người nữa rồi tự kết liễu đời mình thì mọi người mới đổ xô ra nhận diện
con người thật “bệnh hoạn” của cậu. Trước đó, dù có thời gian, những “vấn đề” của cậu đã không được cả gia
đình lẫn xã hội quan tâm nhìn thấu suốt để chữa trị đúng mức. Đứa bé u sầu, cách biệt, lặng lẽ trong một gia đình
lao động Nam Hàn từng được coi là một đứa bé ngoan, vâng lời, ít nói. Ở tuổi trưởng thành, những câu viết “hung
hãn” lạ thường trong bài tập của cậu được thầy giáo, bạn bè ghi nhận, lưu ý nhưng không ai làm gì cả vì không ai
thực sự muốn bỏ thời giờ để “biết” điều gì đang diễn tiến trong nội tâm cậu. Kể cả sau khi án mạng kinh khủng đã
xảy ra, dư luận, truyền thông chỉ đặt vấn đề kiểm soát súng ống và trách cứ đạo luật riêng tư đã ngăn cản những
thông báo cần thiết về bệnh lý của cậu cho giữa những nơi cậu đi qua hay có mặt.
Cái “thấy” mà không thực sự chú tâm “nhìn” hay chỉ nhìn đối tượng bằng hình ảnh có sẵn trong tâm trí cha mẹ đưa
tới hậu quả leo thang nghiêm trọng qua vụ thảm sát tại trường tiểu học Sandy Hook do Adam Lanza gây ra ngày
14 tháng 12 năm 2012, giết hại 20 học sinh lớp 1 và 6 nhân viên hành chánh của nhà trường sau khi Adam đã giết
chính mẹ ruột tại ngôi nhà sang trọng chỉ có hai mẹ con cư ngụ cách trường một đoạn đường. Cuộc điều tra vụ án
cho thấy căn phòng của Adam trong ngôi nhà này có các cửa sổ được cậu che kín bằng các túi rác nilon màu đen,
kế hoạch tàn sát được cậu ghi xuống giấy hẳn hoi mà không một ai phát giác. Nguyên nhân chung nhất trong
những vụ này là các thiếu niên phạm pháp cùng có một tâm trạng chán đời, thù đời, muốn chết, và có lẽ phẫn hận
vì không có cuộc sống bình an trong lòng nên muốn nhiều người (có vẻ như may mắn hơn) phải chết với chúng sau
khi bắt họ nếm trải âu lo và đau đớn, như chúng đã từng.
Nội dung cuộc phỏng vấn bà Klebold cho thấy một thực tế đáng buồn: con người hiểu nhau sao khó quá! Trong lời
tựa cuốn sách, tác giả viết: “Tôi đã tận hiến thời gian (16 năm qua) để tìm hiểu những điều tôi vẫn chưa thấu đáo,
cách nào mà cuộc sống đầy hứa hẹn của một thanh niên lại đưa tới tai họa nhường ấy và ngay dưới mắt tôi?”
Ngày ấy, gia đình Klebold đang êm ấm. Vợ chồng con cái ăn tối bên nhau và Dylan ngoan ngoãn phụ giúp việc
nhà. Vài ngày trước biến cố, Dylan còn mặc tuxedo, thắt nơ đi dự dạ hội ra trường. Sáng sớm về nhà còn được
mẹ thức dậy chào đón và nhận lời cám ơn của con trai vì đã cho cậu một đêm vui. Tóm lại, cậu “có vẻ” là một thiếu
niên trung bình, thậm chí hạnh phúc trong mắt mẹ. Bây giờ nghĩ lại, bà nhận trách nhiệm đã thiếu sắc bén nên bỏ
qua nhiều dấu hiệu báo động: mặc kệ các tập sách chào mời mua súng gởi tới nhà lẫn lộn với đủ thứ quảng cáo
khác và Dylan bắt đầu chơi các video games bắn giết, điểm học tụt hạng xuống B rồi C, né tránh chạm mặt với
cha mẹ, lơ đãng hoặc nóng nảy vô cớ... Bà vẫn chủ quan tin rằng mọi sự đều ổn thỏa với khả năng nuôi dạy con
của mình, cũng không bàn thảo với giáo sư cố vấn khi một bài viết có nội dung đen tối của Dylan được chuyền tới
ông để lượng giá và được ông nhận xét là vô hại. Ai cũng “nghĩ, cho là, tưởng...” Nói một cách khác, ai cũng
“nghe” chính họ thay vì “nghe Dylan” để tìm hiểu sự thật.
Chậm còn hơn không. Những gì bà mẹ đau khổ cùng cực viết trong cuốn sách như một bạch thư sám hối cho
chính mình, dù sẽ không thể trả lại bà đứa con đã mất nhưng chắc chắn sẽ giúp gìn giữ nhiều đứa con khác trên
bờ vực thẳm một khi cha mẹ chúng đọc bà: “Tôi ao ước phải chi đã ngồi yên lặng bên con thay vì tìm cách lấp đầy
khoảng trống bằng chữ nghĩa và ý nghĩ của chính tôi; tôi ao ước phải chi đã nhận thức rõ cảm xúc của con thay vì
cứ cố sức bàn ra và không bao giờ chấp nhận cho con có những lý lẽ để tránh chuyện trò với tôi khi có điều gì đó
trở nên xấu đi. Tôi ao ước phải chi đã cùng ngồi với con trong bóng tối những giờ khắc khó khăn, nhắc đi nhắc lại
nỗi lo âu trong lòng tôi vào lúc nó đã khước từ hết. Tôi ao ước phải chi đã bỏ hết mọi thứ để chỉ tập trung vào con,
lần mò tìm hiểu và khuyến khích con nhiều hơn, lẽ ra phải hiện diện bên con đủ để thấy được những gì tôi đã bỏ
sót.”
Quả thật có biết bao trường hợp người ta sống bên nhau, tưởng đã quan tâm đến nhau, thương yêu nhau, hy sinh
cho nhau và quan trọng hơn cả, hiểu nhau đủ, thực tế khi xảy ra biến cố, nhìn lại, thấy tất cả sự tin chắc nói trên chỉ
là “tưởng tượng” theo cái cách và ở mức độ để chính bản thân một người trong cuộc được an tâm thôi! Ôi, đã
mấy ai giữa dòng đời bon chen, huyễn tưởng, có lúc nhìn sâu vào mắt người bên cạnh, thấy ra được điều gì trong
đôi mắt ấy và để sự thinh lặng làm tan chảy vào nhau tất cả yêu thương trong trái tim cần thanh tẩy của mình?
Nếu vậy, hạ giới đã là thiên đường.
Bùi Bích Hà