B. "Kiếp Lưu Vong" là tiếng khóc bi hùng của một thanh niên yêu nước kêu gọi toàn dân Việt Nam lấy lại khí phách oai hùng của dân tộc Việt để giành lại tự do."Kiếp Lưu Vong" là một bài thơ chính trị, bao gồm cả chống đối và kêu gọi. Tuy nhiên, ý nghĩa chống đối và/ hoặc kêu gọi được diễn tả kín
đáo và tinh tế.
Tác giả viết bài thơ dùng ngôi thứ nhất ("tôi"). Trong một bài thơ, bài hát, hay một truyện, chữ "tôi" không nhất thiết là chính tác giả, mà có
thể là vai chính trong câu chuyện, một thanh niên trẻ. Tuy nhiên, qua những gì ta biết về Nguyễn Viết Dũng, ta hiểu bài thơ này là lời của
chính Nguyễn Viết Dũng. Do đó, tác giả, Nguyễn Viết Dũng, đang thổ lộ chính tâm trạng của anh qua bài thơ.
Tác giả mở đầu bằng câu hỏi do một người con gái đặt ra làm sao thoát được kiếp lưu vong. Anh không trả lời được câu hỏi mà chỉ cười
buồn. Cô gái rơi nước mắt và hỏi khi nào dân tộc mới có được tự do ("Em hỏi tôi: Sao thoát kiếp lưu vong?/ Tôi cười buồn, tôi đâu hơn gì
thế/ Đôi mắt nàng buồn ướt hai dòng lệ/ 'Đến bao giờ dân tộc được tự do?'"). Trong thơ, "lấy được chú ý của người đọc trong vài hàng đầu
quả là một thử thách" (Goodman 2011, 63). Nhưng ở đây, tác giả vô ngay vào ý chính và khiến người đọc tò mò, muốn đọc thêm ngay.
Ta không rõ mối liên hệ giữa cô gái và tác giả, nhưng chuyện đó không cần thiết. Cô ta có thể là người yêu, bạn học, em gái, hoặc bất cứ
một cô gái nào có cùng nỗi ưu tư về đất nước và dân tộc như tác giả. Một cách tinh tế, tác gỉả dường như dùng cô gái là biểu tượng cho
người mà tác giả muốn nói với. Do đó, ta có thể hiểu Nguyễn Viết Dũng đang muốn gói ghém tâm sự anh là những lời tâm huyết gửi đến
những người trẻ như anh.
Tác giả dùng hai câu hỏi để giới thiệu bài thơ. Câu hỏi không định nghĩa "kiếp lưu vong" hoặc "tự do" mà được đặt dưới dạng như thể vấn đề
không còn là nghi vấn. Câu hỏi là làm sao thoát khỏi kiếp lưu vong và khi nào thì có được tự do.
Tác giả lập lại câu hỏi khi nào dân tộc được tự do, khi mà cộng sản vẫn còn cai trị đất nước. Lởi kêu gọi toàn dân chỉ rơi vào quên lãng trong
cuộc sống bận rộn, lo lắng sinh sống trong việc kiếm ăn, lo nhà cửa, và tiền bạc ("Đến bao giờ dân tộc được tự do?/ Khi cộng sản vẫn còn
cai trị?/ Tiếng gọi công dân rơi vào cơn mộng mị/ của vòng quay cơm-áo-gạo-tiền"). Bằng cách dùng từ ngữ "cai trị," Nguyễn Viết Dũng
khẳng định thực chất của cái gọi là "chính phủ" hoặc đảng cộng sản Việt Nam: đó là một nhóm nắm quyền do bạo lực và không phải do dân
chúng ủy thác sứ mạng lo việc nước.
Tác giả dùng "tiếng gọi công dân" với hàm ý lời kêu gọi toàn dân đứng lên. "Tiếng gọi công dân" không phải chỉ là nhóm chữ về lời kêu gọi
đến công dân. Một cách có ý nghĩa, nó là nhan đề bài quốc ca VNCH trong miền Nam trước ngày cộng sản hoàn thành việc xâm lăng và
cướp đất nước VNCH năm 1975 (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2015b). Nguyễn Viết Dũng dường như đã tìm hiểu nhiều về lịch sử Việt Nam và
VNCH. Việc anh quen thuộc với bài quốc ca VNCH không có gì lạ. Anh đã từng hát bài quốc ca này (Xem, thí dụ như, Kỳ 2014) và treo cờ
VNCH trên mái nhà anh tại Nghệ An. Do đó, "tiếng gọi công dân" ở đây không phải chỉ là một nhóm chữ tình cờ đặt ra, mà hầu như chắc
chắn là tác giả muốn gói ghém các ý tưởng của bài quốc ca VNCH trong câu thơ này.
Nhóm chữ "rơi vào cơn mộng mị của vòng quay cơm-áo-gạo-tiền" ngụ ý lời kêu gọi toàn dân không có hiệu lực và thường bị bỏ qua hoặc
quên đi do cuộc sống kiếm ăn và lo áo mặc và nhà ở. Chữ "vòng quay" cho thấy những bận rộn này như thể không có chấm dứt và người dân
cứ bị quay cuồng trong cuộc sống nên trở nên trơ trơ trước tiếng kêu gọi.
Anh hỏi cô gái nhìn anh có khác gì kẻ điên, sống kiếp lưu vong ngay trên quê cha đất mẹ. Cuộc đời vẫn trôi đi và anh vẫn cúi đầu bẽ bàng
cho thân phận, tự hỏi phải chăng khí phách dân đã tiêu tan ("Em nhìn tôi xem: khác gì kẻ điên?/ Sống kiếp lưu vong ngay trên đất mẹ/ Dòng
đời vẫn trôi: Tôi cúi đầu bàng bẽ/ Dân khí cạn rồi?"). Tới đây khán giả mới chợt hiểu ý nghĩa của "kiếp lưu vong" ở câu đầu, và tại sao anh
muốn thoát kiếp lưu vong. Không, anh không phải là một người tha hương, lưu vong nơi xứ lạ quê người. Anh sống kiếp lưu vong ngay trên
xứ sở của anh, nơi quê cha đất mẹ, nơi anh sinh trưởng. Thật là một hình ảnh bi thương khi một người không có cảm tưởng thuộc về quê
hương mình khi anh đang sống trên quê hương. Chỉ với câu "Sống kiếp lưu vong ngay trên đất mẹ," Nguyễn Viết Dũng nói lên nỗi tái tê của
người dân tại Việt Nam. Đất nước yêu dấu đã trở nên xa lạ, như một xứ nước ngoài. Còn gì chua xót hơn? Với câu "Dân khí cạn rồi?"
Nguyễn Viết Dũng nhắc đến khí phách của dân tộc Việt qua hàng ngàn năm lịch sử, và tự hỏi phải chăng khí phách kiêu hùng của dân tộc Việt
đã suy đồi tiêu tan.
Khí phách ấy mở đầu với Hai Bà Trưng qua tiếng trống Mê Linh nổi lên đánh đuổi Tô Định và quân Đông Hán, và tiếp tục với biết bao công
trình của cha ông bảo vệ đất nước và mở mang bờ cõi qua các đời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần rồi đến nhà Hậu Lê và các đời chúa Nguyễn với
công trình Nam tiến, Quang Trung, Gia Long. Với lịch sử kiêu hùng, lẽ nào chúng ta sống cuộc đời hèn yếu, cúi đầu chịu lũ cộng nô đày đọa?
("Còn nhớ chăng tiếng trống Mê Linh?/ Và xương máu tiền nhân khai hoang mở nước?/ Lẽ nào ta mãi sống đời bạc nhược?/ Để cộng nô kia
mãi mãi đọa đày?"). Phù hợp với tư tưởng của Czesław Miłosz, Nguyễn Viết Dũng gói ghém lịch sử với ngôn ngữ vì "ta không thể tách rời
học sử và học ngôn ngữ" trong thi ca (Lazer 2003). Bài thơ không chính yếu nói về lịch sử, nhưng Nguyễn Viết Dũng nhắc đến lịch sử như
một "mức độ ý thức" do Miłosz đưa ra. Cái "mức độ ý thức" đó thật là sâu sắc vì nó làm nổi bật nỗi bi thương của tác giả trong kiếp lưu vong
trên một đất nước đã từng có lịch sử kiêu hùng. Chính nét kiêu hùng đó khiến Nguyễ́n Viết Dũng cảm thấy xa lạ với đất nước hiện nay, vì
nhóm cầm quyền đã và đang hủy diệt khí phách kiêu hùng cố hữu của dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm. Anh đã trở thành kẻ lưu vong trên
chính quê hương anh vì anh không còn nhận ra quê hương xứ sở của anh nữa. Với từ ngữ "cộng nô," tác giả khẳng định nhóm cầm quyền
cộng sản chỉ là nô lệ cho quan thầy Tàu cộng như đã được biết rõ qua cách hành xử hèn nhát của chúng đối với Tàu cộng và những áp bức
tàn ác trên dân chúng và những người đấu tranh cho tự do dân chủ.
Tiếp tục với lối dùng câu hỏi tu từ, trong đoạn chót Nguyễn Viết Dũng muốn biết bao giờ lá cờ vàng tung bay, cho thấy tổ quốc trở về trên đất
nước thân yêu để anh thoát kiếp lưu vong, và có được tự do. Anh không thể nào trả lời được câu hỏi đó, và kêu gọi toàn dân hãy trả lời giùm
anh ("Đến bao giờ Hoàng Kỳ tung bay?/Thoát kiếp lưu vong, tự do mang về tới?/ Câu hỏi này sao tôi đáp nổi?/ Đồng bào ơi: Cùng đáp thay
tôi"). Đoạn này có vài điểm quan trọng cần thảo luận kỹ.
Trước hết, tác giả nhắc đến lá cờ vàng ("hoàng kỳ"). Đối với người cộng sản, lá cờ vàng đem cho họ nỗi khiếp sợ kinh hồn vì nó đem lại hình
ảnh chính thể VNCH, và họ cố gắng dẹp bỏ hình ảnh lá cờ vàng trong nước và tại cộng đồng người Việt hải ngoại. Thật là kỳ lạ, mang tiếng
là kẻ "thắng cuộc," tại sao cộng sản lại khiếp sợ lá cờ vàng của VNCH đến độ như vậy? Ta thừa hiểu đó là vì người cộng sản biết là họ thực
sự không thắng VNCH trong cuộc chiến. Họ chỉ nhờ may mắn và dựa vào yểm trợ của Nga Tàu để xâm lăng và cướp được miền Nam Việt
Nam. Ngoài ra cộng sản biết họ chỉ là lũ cướp chính quyền, và lá cờ vàng, hiện hữu trước lá cờ đỏ cộng sản, tiêu biểu chính nghĩa quốc gia.
Những kẻ cầm quyền cộng sản, do đó, rất khiếp đảm khi thấy lá cờ vàng như ác quỷ thấy dấu hiệu thánh giá hoặc Phật.
Nhưng Nguyến Viết Dũng có thực sự nhắc đến lá cờ vàng của VNCH trong bài thơ "Kiếp Lưu Vong" hay không? Nguyễn Viết Dũng đã từng
treo lá cờ vàng của VNCH trên nhà anh ở Nghệ An. Anh còn mặc quân phục có phù hiệu phản ảnh VNCH. Tuy nhiên, "hoàng kỳ" trong câu
"Đến bao giờ Hoàng Kỳ tung bay?" không nhất thiết là lá cờ vàng của VNCH vì lý do sau. Trong câu trước, tác gỉả nhắc đến "Còn nhớ chăng
tiếng trống Mê Linh?" Có nhiều giai thoại lịch sử cho biết Hai Bà Trưng dùng lá cờ vàng như là quốc hiệu trong khoảng thời gian ba năm ngắn
ngủi họ cai trị Việt Nam thời ấy. Ngoài ra, lá cờ vàng ba sọc đỏ hoặc các dạng biến thể đã hiện diện và được dùng từ các triều đại nhà
Nguyễn, rõ ràng nhất là thời vua Bảo Đại, trước khi lá cờ đỏ của cộng sản dựng lên trong cuộc cướp đoạt chính quyền của Quốc Gia Việt
Nam vào năm 1945.
Qua việc nhắc đến Hai Bà Trưng, dường như tác giả muốn liên kết cờ vàng với tổ quốc Việt Nam từ thời xa xưa. Đương nhiên, vì VNCH là
chính thể của Quốc Gia Việt Nam, "hoàng kỳ" cũng hàm ý lá cờ vàng của VNCH. Nhưng quan trọng hơn, "hoàng kỳ" là lá cờ của chính nghĩa,
và chính thống là của tổ quốc Việt Nam. Chính vì vậy mà chỉ khi lá cờ vàng tung bay trên đất nước, tổ quốc mới trở lại trên đất nước Việt
Nam, và người lưu vong mới thoát được kiếp lưu vong để thuộc về quê cha đất mẹ, và không còn cảm thấy lạc lõng nữa.
Thứ nhì, tác giả có thực sự không biết câu trả lời cho câu hỏi anh đặt ra hay không? Câu "Câu hỏi này sao tôi đáp nổi?" chỉ cho biết làm sao
mà anh trả lởi được, nhưng ta không biết lý do tại sao anh không trả lời được. Ta nhận thấy mọi câu hỏi trong bài thơ đều là những câu hỏi tu
từ, và người hỏi đều có câu trả lời, nhưng anh vẫn hỏi để đặt vấn đề, vả dùng các câu hỏi để hàm ý cho ý nghĩa khác. Một cách tinh tế, tác
giả muốn đồng bào anh trả lời gìùm anh. Trả lời tức là hành động. Tác giả khéo léo đẩy trách nhiệm trả lời tới toàn dân, như gián tiếp kêu gọi
toàn dân hãy ra tay hành động. Câu "Đồng bào ơi: Cùng đáp thay tôi" ngụ ý toàn dân hãy đoàn kết ("cùng") và hành động để vất bỏ chế độ
cộng sản và đem lại tự do cho toàn dân. Câu này liên kết với nhóm chữ "Tiếng gọi công dân" trong đoạn trước như cho lóe lên một niềm hy
vọng là toàn dân sẽ "đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống" (Cao-Đắc 2015b) trong cuộc đấu tranh cho tự do.
Tóm lại, Nguyễn Viết Dũng viết bài thơ "Kiếp Lưu Vong" với một kỹ thuật tuyệt vời. Ý nghĩa của các câu thơ thật đơn sơ, không có gì cầu kỳ,
không có gì khó hiểu, nhưng ta nghe được tiếng khóc văng vẳng của những người trẻ với lòng yêu nước tràn trề̉. Tiếng khóc ấy không phải là
tiếng khóc của người nhu nhược yếm thế, mà là tiếng khóc thương xót cho tổ quốc thương yêu đã bị lũ quỷ đỏ dày xéo cướp bóc và tiêu hủy.
Tiếng khóc ấy là dấu hiệu của lòng can đảm và ý chí cương quyết sẽ bùng dậy.
Ý nghĩa chống đối và kêu gọi trong bài thơ "Kiếp Lưu Vong" rất tinh tế. Sự chống đối được diễn tả qua những câu xác định về mất tự do vì sự
cai trị của cộng sản, sự thờ ơ của dân chúng vì cuộc sống quay vòng, và sự thoái hóa của khí phách dân tộc, và hèn nhát chấp nhận bị cộng
nô đày đọa. Ngoài việc bày tỏ chống đối, "Kiếp Lưu Vong" còn là lời kêu gọi toàn dân đoàn kết để giành lại tự do đã bị cộng sản cướp đi.
C. Với thể loại thơ bốn câu liên kết thích hợp cho mục tiêu chống đối và kêu gọi, "Kiếp Lưu Vong" diễn tả ý tưởng thật hữu hiệu với cách dùng các kỹ thuật mỹ từ như câu hỏi tu từ và ẩn dụ.Như trình bày ở trên, bài thơ "Kiếp Lưu Vong" là một bài thơ vửa chống đối vửa kêu gọi. Do đó, thể thơ bốn câu liên kết rất thích hợp cho
mục tiêu này. Thể bốn câu liên kết khá thông dụng cho nội dung kể lể hoặc lời kêu gọi (thí dụ như bài hịch). Sự liên kết hoặc móc nối một
đoạn sang đoạn kế tiếp được thực hiện qua vần cuối câu, tạo nên sự trôi chảy theo thứ tự. Một bài thơ theo thể này có nhiều đoạn. Mố̃i đoạn
có bốn câu. Mỗi câu có khoảng tám chữ (words) tương đương với tám âm tiết (vì tiếng Việt là tiếng đơn âm). Có câu dùng bảy hoặc chín
chữ để thay đổi âm hưởng. Trong mỗi đoạn, vần luôn luôn gieo cuối câu. Câu đầu hay thứ nhất vần với câu chót của đoạn trước. Câu thứ nhì
vần với câu thứ ba. Câu chót vần với câu đầu của đoạn kế tiếp.
Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" gồm có năm đoạn, mỗi đoạn có bốn câu. Mỗi câu có khoảng tám chữ. Có câu có bảy hoặc chín chữ để thay đổi âm
hưởng. Đặc biệt, câu "Dân khí cạn rồi?" chỉ có bốn chữ, có tác dụng nhấn mạnh.
Bố cục bài thơ khá chặt chẽ với lối nhập đề trực tiếp gây chú ý ngay trong câu đầu. Ý chính của bài thơ về ý nghĩa của kiếp lưu vong nằm ở
đoạn 3. Đoạn 4 gợi ý cho giải đáp vấn đề. Đoạn chót đưa ra giải đáp.
1. Bài thơ có vần điệu chặt chẽ với nhịp điệu thay đổi tạo nên nét linh động và gây cảm xúc:
Như được trình bày ở trên, bài thơ viết theo thể loại vần liên kết. Trong mỗi đoạn bốn câu, vần được gieo ở hai câu giữa và ở cuối câu. Vần
còn được gieo từ đoạn này qua đoạn khác qua móc nối câu chót của một đoạn với câu đầu đoạn kế. Thí dụ, trong đoạn 1, hai câu giữa có
vần "thế" và "lệ." Câu chót của đoạn 1 vần với câu đầu của đoạn 2 ("do" với "do"). Tiếp tục là các vần trong đoạn và giữa hai đoạn như sau:
"trị" với "mị," "tiền" với "điên," "mẹ" với "bẽ," "nước" với "nhược," "đày" với "bay," và "tới" với "nổi." Để ý là vần trong đoạn theo vần trắc và
vần nối hai đoạn theo vần bằng. Vần trắc thường tạo tác dụng mạnh mẽ. Do đó dùng vần trắc trong đoạn gây tác dụng mạnh trên khán gỉả.
Vần bằng cho móc nối các đoạn tạo âm điệu nhẹ nhàng, thích hợp cho sự trôi chẩy của cả bài. Đặc biệt, không có vần nối đoạn 3 và đoạn 4
vì tác giả muốn dùng biến thể để tạo nét thay đổi và nhấn mạnh ý tưởng của ý chuyển tiếp giữa "dân khí" và "tiếng trống Mê Linh."
Vần là chỗ nhấn mạnh ý tưởng. "Một chữ có vần được nổi bật lên - bạn có thể dùng vần để nhấn mạnh những chữ quan trọng. Và vì vần
chính yếu lả tiếng vang, nó cho cảm giác kết thúc" (Addonizio và Laux 1997, 145). Ngoài việc vần được gieo rất chỉnh, tác giả chọn vần cho
từ ngữ quan trọng cho ý của câu. Thí dụ, "trị" trong "cai trị" nhấn mạnh tính chất đô hộ của cộng sản, "mị" trong "mộng mị" nhấn mạnh sự mê
man của người Việt, "đày" trong "đọa đày" nhấn mạnh tính chất tàn bạo của cộng nô, "bay" trong "tung bay" vẽ ra hình ảnh tự do và giải
thoát.
Tuy bài thơ "Kiếp Lưu Vong" viết theo thể loại có vần với quy luật chặt chẽ, tác giả không dùng số chữ (words) cố định ở tám chữ mỗi câu,
mà thay đổi vài câu có 7 chữ hoặc 9 chữ. Đặc biệt, câu "Dân khí cạn rồi?" chỉ có bốn chữ. Cách dùng biến thể này giúp tạo nên nhịp điệu linh
động và gây cảm xúc cho bài thơ. Câu "Dân khí cạn rồi?" tạo ra một quãng nghỉ, giúp cho người đọc/ nghe có dịp ̣để ý tưởng thấm dần, và
để chuẩn bị cho câu kế tiếp. Để ý là ca khúc của nhạc sĩ Dzuy Lynh tạo cùng tác dụng bằng cách nhắc lại toàn câu "Dân khí cạn rồi?" như
một tiếng vang dội lại.
2. Bài thơ dùng các câu hỏi tu từ rất hiệu quả và có những ẩn dụ nội dung độc đáo, và nên được truyền bá rộng rãi:
Một trong những khía cạnh của thi ca và văn xuôi là cách dùng mỹ từ. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" có hai kỹ thuật mỹ từ nổi bật: câu hỏi tu từ và
ẩn dụ.
a) Các câu hỏi tu từ đem lại tác dụng gia tăng mức độ hiểu biết của người đọc về thông điệp trong bài thơ:
Tất cả những câu hỏi trong bài thơ đều là câu hỏi tu từ. Vài thí dụ của các câu hỏi tu từ trong bài như sau:
Sao thoát kiếp lưu vong?
Đến bao giờ dân tộc được tự do?
Còn nhớ chăng tiếng trống Mê Linh?
Đến bao giờ Hoàng Kỳ tung bay?
Tác giả dùng câu hỏi tu từ để lôi cuốn khán giả, khiến khán giả phải tham gia vào sự suy nghĩ, và do đó gây tác dụng mạnh trên khán giả.
Quan trọng hơn, "câu hỏi tu từ có thể là một khí cụ mạnh mẽ cho việc thuyết phục hoặc kích động suy nghĩ" (Licciardi). Có nhiều nghiên cứu
tâm lý học cho thấy câu hỏi tu từ giúp gia tăng sự thuyết phục trong một thông điệp, nhất là với những người thờ ơ hoặc ít có động cơ dính
líu về vấn đề nêu ra trong thông điệp đó. "Dưới những điều kiện ít dính líu, khi đối tượng không có được động cơ thúc đẩy một cách tự nhiên
để tiến hành thông điệp kỹ lưỡng, các câu hỏi tu từ làm gia tăng ý tưởng về thông điệp" (Petty, Cacioppo, và Heesacker 1981, 438). Ngược
lại, với những người đã có động cơ mạnh thúc đẩy trong việc dính líu với thông điệp, các câu hỏi tu từ khiến họ bị chia trí ra khỏi sự suy nghĩ
bình thường (sđd.).
Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" có một tác dụng rất hữu hiệu trên giới trẻ qua cách dùng kỹ thuật câu hỏi tu từ vì lý do sau đây. Đa số thanh thiếu
niên nam nữ Việt Nam, dưới nền giáo dục tẩy não và nhổi sọ, không biết rõ sự thật về đảng cộng sản Việt Nam, lịch sử, chiến tranh Việt
Nam, và chính thể VNCH. Ngoài ra, cuộc sống xã hội chật vật, nền kinh tế suy đồi và tệ trạng xã hội, tham nhũng, ngày càng gia tăng. Do đó,
tuổi trẻ Việt Nam thường ít khi để ý đến các vấn đề "chính trị," và thường sợ hãi hoặc bỏ qua các vấn đề này. Đa số chỉ sống qua ngày, nghe
theo lời "khuyên dạy" của nhà cầm quyền hoặc những người được coi là trí thức giáo dục nhưng chỉ là công cụ của chính quyền. Giới học
sinh sinh viên thường được khuyên răn là lo chuyện học hành và đừng nghĩ đến "chính trị," hoặc sự tồn vong của tổ quốc. Đa số giới trẻ đi
theo trào lưu xã hội qua những tin tức hoạt động văn nghệ, thể thao, giải trí, hoặc kinh tế. Phụ huynh đồng lõa với nhà cầ̀m quyền một cách
vô ý thức vì lo sợ tương lai và an ninh cho con em, nên thường cản trở con em tham dự những hoạt động có tính cách "chính trị." Hậu quả là
thanh thiếu niên Việt Nam hầu như thờ ơ đến tình trạng đất nước, hoặc dính líu rất í́t đến các hoạt động đấu tranh, cải thiện xã hội.
Theo các nghiên cứu khoa học kể trên, vì đa số giới trẻ ít để ý đến các vấn đề "chính trị" đưa ra trong bài thơ hay thông điệp, các câu hỏi tu
từ gia tăng khả năng thuyết phục trong thông điệp tác giả Nguyến Viết Dũng muốn gửi. Tuy nhiên, sẽ có người phản đối, "Nhưng nếu giới trẻ
không để ý đến các sự kiện trong thông điệp, họ sẽ không bỏ thì giờ để đọc bài thơ." Lý luận đó hoàn toàn hợp lý. Để bài thơ có tác dụng
trên giới trẻ, ta phải quảng bá, truyền đạt bài thơ một cách rộng rãi. Với các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay qua Facebook,
Twitter, blogs, và các tổ chức xã hội dân chủ, việc truyền bá thông điệp của Nguyễn Viết Dũng trong bài thơ "Kiếp Lưu Vong" là một việc dễ
dàng.
b) Các ẩn dụ đem lại nét đẹp cho cách diễn tả và gây tác dụng khó quên cho người nghe:
Ẩn dụ là một hình thức so sánh ngầm. Có hai cách dùng ẩn dụ: hình thức và nội dung. Ẩn dụ hình thức là sự so sánh ngầm được biểu lộ ngay
ở chữ dùng. Thí dụ: suối tóc, bờ vai, gió gào. Ẩn dụ nội dung là sự so sánh nằm trong ý nghĩa. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" có nhiều ẩn dụ nội
dung độc đáo. Những ẩn dụ này giúp bao hàm tính chất chống đối và kêu gọi của bài thơ, và khiến bài thơ không có những lời lẽ bộc lộ rõ
ràng.
Ẩn dụ quan trọng nhất trong "Kiếp Lưu Vong" là sự ví von quê hương mình là một xứ sở xa lạ. Cái ví von này có nhiều diễn giải. Thứ nhất,
quê hương tác giả không thay đổi nhưng tác giả thay đổi và cảm thấy lạc lõng. Thí dụ tác giả có thể sinh sống ở hải ngoại một thời gian là kẻ
lưu vong, nhưng khi trở lại quê hương thì không thích hợp với cuộc sống vì anh đã thay đổi và do đó lại sống cuộc sống lưu vong ngay tại quê
hương mình. Ta thấy ngay đó không phải là diễn giải của "Kiếp Lưu Vong" vì Nguyễn Viết Dũng sống tại Việt Nam trong suốt quãng đời anh
cho tới nay. Thứ nhì, tác giả sinh trưởng nơi đất mẹ và không rời xa quê hương, nhưng quê hương anh thay đổi. Anh không còn tìm thấy
những đặc tính của quê hương dân tộc mà anh biết như tự do và khí phách oai hùng. Do đó, anh cảm thấy anh là kẻ xa lạ với chính quê
hương anh. Đó chính là diễn giải thích đáng của bài thơ.
Ẩn dụ thứ hai là sự ví von lá cờ vàng tượng trưng cho tự do. Điều này chỉ có thể xảy ra khi lá cờ đỏ của cộng sản bị tiêu hủy, ngụ ý chế độ
cộng sản chấm dứt. Mối liên hệ giữa "Hoàng Kỳ tung bay" và "Thoát kiếp lưu vong" tuy có vẻ xa xôi, nhưng thực ra rất chặt chẽ. Lá cờ vàng,
ngoài việc tượng trưng cho chính nghĩa của tổ quốc, còn tượng trưng nước VNCH, đang bị cộng sản chiếm đóng. Lá cờ vàng tung bay không
những biểu hiện nước VNCH đã vùng dậy lật đổ nhóm đô hộ cộng sản, mà còn biểu hiện tự do trở về trên quê hương vì chính thể VNCH là
một chính thể tự do dân chủ.
Ẩn dụ thứ ba là mối liên hệ giữa chính nghĩa tổ quốc và lá cờ vàng qua câu nhắc nhở đến "tiếng trống Mê Linh." Như trình bày ở trên, có các
giai thoại lịch sử cho biết lá cờ vàng đã được dùng từ thởi Hai bà Trưng. Do đó, "tiếng trống Mê Linh" không chỉ nhắc đến khí phách oai hùng
của dân tộc Việt mà còn nhắc đến tính chất tổ quốc của lá cờ vàng.
Ẩn dụ thứ tư là sự ví von đồng bào trả lời câu hỏi giùm tác gỉả với việc toàn dân đoàn kết để lật đổ chế độ cộng sản. Tác giả khéo léo đẩy
trách nhiệm trả lời câu hỏi đến đồng bào anh, vì làm sao anh biết được ý chí của toàn dân thế nào. Nhưng trả lời tức là hành động. Do đó,
đẩy trách nhiệm trả lời câu hỏi đến đồng bào là ẩn dụ cho lời kêu gọi đồng bào đoàn kết để đứng lên giành lại tự do.
Các ẩn dụ này được dùng một cách khéo léo và có liên kết với nhau chặt chẽ. Cộng với các câu hỏi tu từ, các ẩn dụ này gia tăng chiều sâu
của mức độ ý thức về tình trạng đất nước và sự cần thiết cho một cuộc nổi dậy của toàn dân. "Kiếp Lưu Vong," do đó, có một giá trị thật cao
dưới tiêu chuẩn của Czesław Miłosz đề cập ở trên.
D. Kết Luận:Nguyễn Viết Dũng viết bài thơ "Kiếp Lưu Vong" như lời một chứng nhân sống trong xã hội của chế độ cộng sản Việt Nam. Nguyễn Viết Dũng
không những là một thanh niên yêu nước và có nhiệt huyết với tổ quốc mà còn là một người thông minh tài giỏi, có tài năng khác thường. Bài
thơ "Kiếp Lưu Vong" là một bài thơ tuyệt diệu, nói lên nỗi xót xa của tuổi trẻ trước cảnh đất nước suy tàn và hiểm họa rơi vào tay Tàu cộng
và kêu gọi toàn dân thức tỉnh qua lời nhắc nhở lịch sử oai hùng để nổi lên giành lại chính nghĩa quốc gia và tự do.
Qua thể thơ bốn câu vần liên kết, bài thơ "Kiếp Lưu Vong" có tác dụng hữu hiệu là bài thơ chống đối và kêu gọi. Ý nghĩa chống đối và kêu gọi
được diễn tả một cách kín đáo và tinh tế qua cách dùng kỹ thuật câu hỏi tu từ và ẩn dụ. Bài thơ cần được truyền bá rộng rãi trong giới thanh
thiếu niên nam nữ tại Việt Nam.
Điểm đặc sắc nhất của "Kiếp Lưu Vong" là lòng can đảm của Nguyễn Viết Dũng khi anh ca ngợi lá cờ vàng ngay trên đất kiểm soát bởi cộng
sản. Anh không những chỉ ghi nhận qua bài thơ mà còn thể hiện qua hành động treo lá cờ vàng trên nóc nhà, và mặc trang phục theo
QLVNCH. Lòng can đảm đó là tính chất uy dũng của dân tộc Việt, và tinh thần bất khuất của biết bao nhiêu hào kiệt trong lịch sử. Giới trẻ tại
Việt Nam nên noi gương Nguyễn Viết Dũng và những thanh niên nam nữ đang đấu tranh cho tự do dân chủ.
Hãy chấm dứt cuộc sống tạm bợ như những kẻ lưu vong ngay trên đất mẹ.
CẢM TẠTôi xin có lời cám ơn bạn mythanh trên trang mạng Dân Làm Báo đã yêu cầu đề tài, trao đổi ý kiến, khích lệ, và hướng dẫn tôi trong lúc viết
bài này.
28/8/2015
Cao-Đắc Tuấn
__________________
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Addonizio, Kim và Laux, Dorianne. 1997. The Poet's Companion. A Guide to the Pleasures of Writing Poetry. W. W. Norton & Company,
New York, New York, U.S.A.
2. Bloc 8406. 2015. Kiến nghị thư yêu cầu trả tự do cho Nguyễn Viết Dũng (Dũng Phi Hổ). 23-4-2015.
http://danlambaovn.blogs...u-cau-tra-tu-do-cho.html (truy cập 27-8-2015).
3. Cao-Đắc, Tuấn. 2014. Lửa Cháy Trong Mưa. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.
4. _________. 2015a. Nước, Quốc Gia, Dân Tộc, và Việt Nam Cộng Hòa. 21-7-2015.
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/07/nuoc-quoc-gia-dan-toc-va-viet-nam-cong.html (truy cập 23-8-2015). Country, State, Nation, and the Republic of Vietnam. 21-7-2015.
http://danlambaovn.blogs...ion-and-republic-of.html (truy cập 23-8-2015).
4. _________. 2015b. "Tiếng Gọi Công Dân". 15-5-2015.
http://danlambaovn.blogs.../tieng-goi-cong-dan.html (truy cập 19-8-
2015).
5. Coleman, John. 2012. The Benefits of Poetry for Professionals. 27-11-2012.
https://hbr.org/2012/11/...nefits-of-poetry-for-pro (truy
cập 25-8-2015).
6. CTV Danlambao. 2015a. Hà Nội: CA bắt khẩn cấp nhiều thanh niên mặc áo in phù hiệu Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. 15-4-2015.
http://danlambaovn.blogs...-nien.html#disqus_thread (truy cập 27-8-2015).
7. _________. 2015b. CSVN vu khống Nguyễn Viết Dũng 'gây rối trật tự'. 21-4-2015.
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/04/csvn-vu-khong-nguyen-viet-dung-gay-roi.html (truy cập 27-8-2015).
8. _________. 2015c. CA khởi tố hình sự, khám xét nhà anh Nguyễn Viết Dũng. 28-4-2015.
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/04/ca-khoi-to-hinh-su-kham-xet-nha-anh.html (truy cập 27-8-2015).
9. _________. 2015d. Nguyễn Viết Dũng bị CA đánh đập trong lúc giam giữ. 16-6-2015.
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/06/nguyen-viet-dung-bi-ca-anh-ap-trong-luc.html (truy cập 27-8-2015).
10. Goodman, John C. 2011. Poetry: Tools & Techniques. A Practical Guide to Writing Engaging Poetry. Gneiss Press, British Columbia,
Canada.
11. Heaney, Seamus. 2011. Seamus Heaney on Czesław Miłosz's centenary. 7-4-2011.
http://www.theguardian.c...czeslaw-milosz-centenary (truy cập 15-8-2015).
12. Kenseth, Arnold. 1968. Poems of Protest Old and New - A Selection of Poetry. The Macmillan Company, New York, U.S.A.
13. Kỳ Châu. 2014. Chính nghĩa Quốc Gia - Quốc Ca VNCH - NVD. 22-10-2014.
https://www.youtube.com/watch?v=mGXTJewljzs (truy cập
19-8-2015).
14. Lazer, Hank. 2003. Poetry and Thought: the Example of Czeslaw Milosz. Summer 1988, Volume 64. 12-12-2003.
http://www.vqronline.org...t-example-czeslaw-milosz (truy cập 15-8-2015).
15. Licciardi, Bryanna. Không rõ ngày. Rhetorical Question in Literature: Definition, Effect & Examples. Không rõ ngày.
http://study.com/academy...ion-effect-examples.html (truy cập 23-8-2015).
16. Matus, Douglas. Không rõ ngày. The Benefits From Reading Poems. Không rõ ngày.
http://classroom.synonym.com/benefits-reading-poems-3849.html (truy cập 25-8-2015).
17. Minh Văn. 2015. Thăm nhà Nguyễn Viết Dũng, người treo cờ VNCH ở Nghệ An. 21-8-2015.
http://danlambaovn.blogs...-dung-nguoi-treo-co.html (truy cập 27-8-2015).
18. MLBVN. 2015. Tuyên bố của Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) về việc công an bắt giữ tùy tiện anh Nguyễn Viết Dũng. 23-4-2015.
http://danlambaovn.blogs...oi-blogger-viet-nam.html (truy cập 27-8-2015).
19. Mộc Lan. 2015. Dũng Phi Hổ Là Ai? 22-4-2015.
http://www.thegioimoionline.com/?p=3901 (truy cập 23-8-2015).
20. MrBinhBet. 2015. KIẾP LƯU VONG. 24-4-2015.
https://www.youtube.com/watch?v=U8RtcsCueDU (truy cập 19-8-2015).
21. Nair, P. G. R. 2011. Celebrating the Centennial of Czeslaw Milosz (1911-2011). 20-8-2011.
http://www.boloji.com/index.cfm?md=Content&sd=PoemArticle&PoemArticleID=83 (truy cập 15-8-2015).
22. Petty, Richard E., Cacioppo, John T., và Heesacker, Martin. 1981. Effects of Rhetoriocal Questions on Persuasion: A Cognitive
Response Analysis. Journal of Personality and Social Psychology, Vol. 40, No. 3, 432-440.
http://www.psy.ohio-state.edu/petty/PDF%20Files/1981-JPSP-Petty,Cacioppo,Heesacker.pdf (truy cập 23-8-2015).
23. Pongo Teen Writing. Không rõ ngày. Benefits of Writing Poetry. Không rõ ngày.
http://www.pongoteenwrit...org/Benefits-of-Writing-Poetry.html (truy cập 25-8-2015).
24. SparkNotes Editors. 2005. SparkNote on Aristotle (384–322 B.C.). SparkNotes LLC. 2005.
http://www.sparknotes.com/philosophy/aristotle/ (truy cập 14-8-2015).
25. Wikipedia. 2015a. Poetry. 13-8-2015.
https://en.wikipedia.org/wiki/Poetry (truy cập 13-8-2015).
26. _________. 2015b. Thơ. 11-6-2015.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%A1 (truy cập 11-8-2015).
27. _________. 2015c. Percy Bysshe Shelley. 11-8-2015.
https://en.wikipedia.org/wiki/Percy_Bysshe_Shelley (truy cập 13-8-2015).
28. _________. 2015d. Prose poetry. 16-8-2015.
https://en.wikipedia.org/wiki/Prose_poetry (truy cập 19-8-2015).
29. _________. 2015e. Đường lên đỉnh Olympia. 26-8-2015.
https://vi.wikipedia.org...C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_l%C3%AAn_%C4%91%E1%BB%89nh_Olympia (truy cập 27-8-2015).