Những câu nói của dân gian, trải qua bao năm tháng, bao thời đại vẫn còn nguyên giá trị, chứng minh được cho chúng ta thấy cái Duyên ban
đầu đã biến thành cái Nợ. Nhưng chưa hết ! Cái Nợ này còn dây dưa kéo từ đời này sang đời khác. Cho nên mới có câu nói « Nợ Ba Sinh »
là ám chỉ cái Nợ của nhiều kiếp, kiếp quá khứ, kiếp hiện tại và cả kiếp vị lai ! Ba Sinh, dịch từ chữ Hán là Tam Sinh hay Tam Kiếp vậy. Có
chấp nhận thuyết luân hồi thì mới hiểu được Nợ Ba Sinh này, vì con người gặp nhau kiếp này thường là đã gặp nhau kiếp trước rồi, và đã gặp
nhau kiếp hiện tại thì cũng rất dễ gặp lại nhau trong tương lai, tức là kiếp sau. Kim Trọng khi gặp Thúy Kiều cũng nói đến cái Nợ Ba Sinh này.
Những kẻ yêu nhau mà không được trọn vẹn kiếp này thường hay « hẹn hò » chờ nhau, gặp lại kiếp sau ! Chính trường hợp của Kim Trọng
và Thúy Kiều cũng không khác:
Kiếp này duyên đã muộn rồi
Thề xin kiếp khác đền bồi duyên sau.
…
Kiếp này duyên đã phụ duyên
Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.
Bà vợ của Tú Xương thì an phận:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Chấp nhận Duyên phận, Duyên số cũng không phải là chuyện dễ làm. Thời buổi hiện đại cho thấy, cứ hai cuộc hôn nhân là có một vụ ly dị.
Biết sống với nghịch cảnh không phải chuyện dễ làm. Con người thường thiếu kiên nhẫn và mắc cái tật là đổ lỗi, đổ thừa cho người khác !
Luôn luôn có một lý do mà nhất định không phải là lỗi của tôi. Con người đúng là bất toàn, bất hoàn hảo và thay đổi tánh tình, sở thích theo
thời gian, theo tuổi tác, theo hoàn cảnh đó là chuyện tự nhiên, theo luật vô thường, phải có trên con đường đời gập ghềnh không bằng phẳng
này, nhưng con người đã không làm chủ, không chế ngự, không hàng phục được những điều bất như ý, bất mãn, bất toàn do đó sinh ra đau
khổ, giận dữ, oán trách và cuối cùng là chia tay, cắt đứt mối tơ duyên.
Thật ra, có thể có chăng một thời đại lý tưởng cho con người ? Một nền văn minh hay một nền giáo dục đem lại hoàn toàn hạnh phúc cho con
người ? Nhiều bài học của quá khứ đã được để lại nhưng con người có làm theo, có thay đổi gì không ? Những lời dạy của thánh nhân không
hề thiếu. Mọi nổ lực không ngừng của con người qua triết học, tôn giáo, tâm lý học đều để giúp con người vượt qua mọi khó khăn của cuộc
sống nhưng chuyện lý thuyết thì vẫn dễ mà chuyện thực hành nơi tự thân mỗi con người dường như vẫn là điều khó vượt qua nhất. Chỉ trừ là
con nít, lớn lên ai cũng nhận ra cuộc đời không là màu hồng mà nhuốm màu đỏ của máu, của chiến tranh, chết chóc, bệnh tật, màu đỏ của
lửa hận thù, xung đột, bạo động. Đường đời không trải thảm đỏ của vinh quang và hạnh phúc mà đầy dẫy thất bại và đau khổ. Dòng đời
không phải là dòng sông lặng lờ không sóng gió mà ngược lại, đầy bão giông. Những điều bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện, bất đắc chí,
bất đồng, bất công, bất bình, bất lương, bất chấp, bất trách, bất khả thi, bất thành tựu, bất lực, bất pháp, bất tình, bất nghĩa, bất toàn, bất
an…rải rắc đầy dưới bước chân đi của con người. Sự chống chỏi để đứng vững trên hai chân, tạo dựng sự nghiệp, một gia đình, một căn
nhà, cơm ăn áo mặc, tiện nghi vật chất đầy đủ làm cho con người lao đao vất vả, mau già nua, bệnh tật và chết ! Không có ai chỉ ngồi không,
không động móng tay mà có công danh sự nghiệp, tài sản vật chất, chỉ biết thụ hưởng. Mà nếu có ai có cái may mắn sinh ra đã được hưởng
gia tài của cải cha mẹ để lại cũng phải biết lo toan để gìn giữ, điều này cũng không dễ, thêm vào đó, nếu không gặp lo âu phiền toái chỗ này
thì cũng gặp ở chỗ khác. Được may mắn chỗ này thì sẽ xui xẻo ở chỗ khác mà thôi. Không vô cớ mà lắm nhà tỷ phú, người nổi danh tự tìm
đến cái chết !
Tất cả những điều « bất » nghĩa là không, không được, không có, không thành, không xảy ra như ý muốn, như mong cầu, không đem lại hạnh
phúc, sự tốt lành mà gây phiền toái, lo âu, đau khổ, thất vọng xảy đến trong đời người được xem như gánh nặng oằn xuống đôi vai mà con
người phải chịu đựng, gọi đó là Nợ.
Không ai muốn cưới một người vợ hay lấy một người chồng mà là một « bà chằng » hay « ông chằng », một Hoạn Thư hay Sở Khanh, cũng
thế, không một ai đẻ con ra mà muốn con mình xấu xí, bệnh tật, ngu dốt, lêu lổng, trở nên du đãng, du côn cả. Cũng như trong một gia đình,
không ai muốn anh chị em mà trở nên bất hoà, thù ghét nhau. Nhưng có những điều mà con người không làm chủ được, con người phải cam
chịu, xem như là phần số của mình. Sự chịu đựng, phải mang, phải gánh cái khổ mà không thể trút đi đâu, bỏ chỗ nào hết, được xem như là
Nợ. Đúng ra phải hiểu chữ Nợ như là cái gì mình phải trả vì đã có vay. Nên đạo Phật hiểu chữ Nợ như là một điều mà mình phải chịu, phải
gánh vì mình đã từng tạo ra cái Nhân của cái Nợ này, bây giờ phải trả. Đó cũng không nằm ngoài luật nhân quả. Và cắt nghĩa luật nhân quả
chỉ trong một đời thì không thể nào đúng và đầy đủ được, cho nên đạo Phật phải dựa vào thuyết luân hồi. Phải trải qua nhiều đời, từ quá khứ
đến hiện tại và vị lai mới thấy hết Duyên, Nghiệp, Quả báo. Quả báo không gì khác hơn là Nợ, trả vay, vay trả.
Thí dụ ta đã từng mượn tiền ai mà không trả thì sẽ có ngày ta chịu cảnh túng thiếu, nghèo nàn, làm lụng vất vả, làm thân tôi đòi…Đó là quả
báo của sự việc giựt tiền, không trả nợ. Nếu ta đã từng lường gạt, dối trá ai thì ta sẽ gặp lại những cảnh người khác lừa đảo ta, làm ăn thua
lỗ. Nếu ta đã từng sống đối xử tệ hại, ác độc, hành hạ thậm chí sát hại người khác thì ta sẽ sống lại cái cảnh bị hành hạ, bị đánh đập, bị sát
hại. Ngược lại, khi ta sống tốt, sống hiền lành, đạo đức, hiếu thảo, rộng lượng thì ta sẽ được đền bù lại bằng sự tốt đẹp. Ở đây, chính những
người đã nhận, đã hưởng sự tốt lành, từ sự rộng lượng, từ những hành động đạo đức của ta sẽ là người « mang nợ » cho dù là trong nghĩa
tốt, và họ sẽ đền đáp lại những gì họ đã nhận được. Họ tự xem là những người có Nợ với người đã đem điều tốt lành đến cho họ. Như vậy
phải thấy chữ Nợ qua hai chiều. Một chiều là vay trả nhưng điều xấu mà mình đã tạo, tức là phải gặp lại và chịu đựng những hoàn cảnh hay
hành động xấu xa mà mình đã tạo. Một chiều khác là đền ơn những gì tốt đẹp mà mình đã nhận được. Đền đáp một điều gì đó nghĩa là có
nhận, thì có vay, nghĩa là có Nợ, cho dù trong nghĩa tốt. Nợ có thể là vật chất hay tinh thần và sự vay trả cũng theo đó mà có thể là vật chất
hay tinh thần. Và cũng có thể là vay trả trực tiếp hay gián tiếp. Rất nhiều cách, nhiều kiểu để vay, để mang nợ và cũng thế, rất nhiều kiểu,
nhiều cách để trả Nợ, đền ơn. Chúng ta hiểu ra rằng thọ ơn ai, nhận được sự giúp đỡ qua vật chất hay tinh thần đều được xem như là mang
Nợ. Cho dù người ra ơn không hề nghĩ đến chuyện đền đáp, trả ơn gì cả. Chúng ta ai cũng được giáo dục là thọ ơn và nhớ ơn Sư, ơn Thầy,
ơn cha mẹ, ơn những vị quốc thủ, nguyên thủ biết lèo lái đúng đường vận mệnh đất nước, những người chiến sĩ đã hi sinh bảo vệ tổ quốc,
những vị bác sĩ, y tá, nhân viên bệnh viện tận tình chăm sóc, gần hơn thì có ơn vợ chồng, anh em, bà con, láng giềng, ơn chủ, ơn đồng
nghiệp, ơn bạn bè và cả những người làm công, giúp việc…Cho dù là chúng ta đã bỏ tiền ra để trả công những người này. Không có họ thì
cuộc sống hằng ngày của chúng ta sẽ khó khăn hơn nhiều, ai trông con cái, ai lo nhà cửa tươm tất cho ta rảnh tay lo sự nghiệp. Thời buổi
hiện đại, ít có người phụ nữ nào mà không có công ăn việc làm. Thời xưa thì người đàn bà lại đông con, không có ai giúp một tay thì làm sao
lo hết được công việc nhà. Khi ta mở công ty mà không có nhân viên hay công nhân nào chịu làm việc dưới quyền của ta thì công ty đóng
cửa. Khi ta có công ăn việc làm cũng phải biết nhớ ơn người chủ cho dù họ mướn ta và trả lương cho ta, phần ta thì đã đóng góp tài năng,
sức lực xứng đáng với đồng lương, nhưng không phải vì vậy mà không nhớ ơn người đã cho mình công ăn việc làm, và cũng đừng quên là
không thiếu những người tài giỏi hơn mình. Ngoài ra, còn phải nhớ ơn…con cái vì nhờ có chúng nó mà mình mới sống theo nề nếp, biết ổn
định, nhờ có trách nhiệm, bổn phận mà mình bỏ được tính ích kỷ. Hàng vạn hàng tỷ điều mà chúng ta có thể mang ơn. Cũng là Nợ, khi nhận
được sự dạy dỗ, kinh nghiệm, hiểu biết hay bất cứ điều gì đó từ người khác, cũng có thể là điều tiêu cực như lời chê, trách, phê bình, chỉ
trích…nhưng dưới cái nhìn theo chiều tích cực nên nó trở thành là Ơn. Chúng ta cũng được dạy dỗ là biết cám ơn tất cả những gì chúng ta
thọ nhận trên đời, tốt hay xấu, lành hay dữ, rủi hay may…Không than trách, biết ơn là đủ. Vì điều gì cũng có thể cho ta những bài học đáng
suy nghĩ, noi theo để sửa đổi, hoàn thiện mình và hạnh phúc hơn. Dù chỉ là thiên nhiên, cả vũ trụ này, chúng ta cũng mang ơn. Mở mắt dậy
thấy mặt trời, được ánh sáng, được nắng ấm, có không khí để thở, có gió mát, có cơn mưa tưới tẩm cây cối cho đơm hoa kết trái, có đất
đai để trồng trọt, có điều kiện để nuôi sống thân mạng…Từ một hơi thở vào, thở ra là chúng ta đã mang ơn. Ngay những con vi khuẩn trong
thân thể ta, cũng có những con vi khuẩn « tốt » chứ không phải vi khuẩn nào cũng đem lại bệnh tật cho ta. Phật giáo có cái nhìn bình đẳng
giữa người thi ơn và người thọ ơn. Không có học trò thì ông thầy dạy cho ai ? Không có bệnh nhân thì bác sĩ cũng ngồi không. Không có
người nghèo khó thì cũng không có những người làm từ thiện. Không có người ăn xin thì cũng không có người bố thí. Không có người túng
thiếu thì đâu có kẻ cho vay (và trở nên giàu có nhờ tiền lời…cắt cổ !). Người thi ơn thì được phước, nhưng được phước là nhờ có đối tượng
để thi ơn. Do đó mà bình đẳng. Người thi ơn hay người thọ ơn đều…phải nhớ ơn nhau ! Thử phóng tầm nhìn xa hơn một chút nữa, chúng ta
sẽ thấy, không phải chỉ gọi là Ơn khi việc ấy chỉ hoàn toàn vô vị lợi, mục đích chỉ để giúp người, mà qua những liên hệ « có đi có lại », có «
cung có cầu », có thu nhập, lời lãi, cũng có thể xem là Ơn, nên cũng phải có sự đền đáp. Thí dụ, tiệm phở sẽ sạt nghiệp nếu không có ai
thèm ăn phở. Nếu ai cũng cho xướng ca là vô loại thì ca sĩ, nhạc sĩ sẽ thất nghiệp. Cuộc đời sẽ buồn thiu nếu không có âm nhạc vang lên.
Nếu ai cũng hà tiện, không mua sắm gì hết, chỉ ba cái áo, một đôi giày cũ quanh năm suốt tháng thì không có buôn bán gì được cả và kinh tế
cũng suy sụp ! Ở đây, người bán phải biết ơn người mua và người mua cũng phải biết ơn người bán, cả hai bên đều cần nhau. Cho đến cả
việc mua vui, được gọi là món ăn tinh thần, người tìm vui cũng phải biết nhớ ơn người đem vui đến cho mình. Người đem vui được đền bù
xứng đáng và không quên là nếu không có người tìm vui thì mình cũng khoanh tay ngồi không. Theo Phật giáo còn có những vị được gọi là
Nghịch Hạnh Bồ Tát, các vị này « làm gương » cho chúng sanh bằng những hành động không được gọi là thiện hay đạo đức, khi thấy hậu
quả của những hành động bất thiện đó đem lại thì tự nơi chúng sanh sẽ nảy sinh sự ghê tởm và xa lánh điều xấu ác đó, sẽ không hành động
theo cái gưong xấu được thấy. Xin đưa một thí dụ: bạn gặp một người say sưa nghiện ngập, áo quần thốc thếch, trông dơ dáy bẩn thỉu, đi
đứng xiêu vẹo, ngã nghiêng ngoài đường phố, tự nhiên bạn ghê tởm cái hình ảnh này và bạn tự nói « khiếp quá, tôi không bao giờ trở thành
như ông ta được! » Bạn hãy « cám ơn » ông ta đã cho thấy cái hình ảnh tồi tệ đó để bạn sẽ ghi nhớ và không « noi » theo cái gương xấu
này. Có thể ông ấy là Nghịch Hạnh Bồ tát đấy, chớ vội khinh dễ ! Nhưng mấy ai thấy đó cũng là một bài học, cái bài học « xấu xa » không
đáng noi theo ? Bình thường con người ta chỉ biết khinh khi hoặc có thể là xót xa tội nghiệp, chứ ai mà lại cám ơn cái người thể hiện cái điều
xấu ác được. Nhưng không ! Đạo Phật dạy cũng nên cám ơn người đã đưa cái hình ảnh xấu xa tệ hại đó ra như cám ơn người đã làm gương
tốt vậy. Từ sự cám ơn này, tâm từ bi thương xót, tấm lòng trắc ẩn sẽ được khai mở khi gặp những người không có cuộc sống đạo đức, ngay
thẳng, nghèo hèn, xấu xa, có thể họ chứa chất trong lòng một nỗi khổ nào đó, một hoàn cảnh đau thương nào đó mà mình không biết. Không
cám ơn, không thương xót được thì cũng chẳng nên khinh thường. Một thí dụ để biết cám ơn tất cả, cho dù là gương tốt hay gương xấu. Khi
vào bệnh viện, để cảnh giác mọi người về sự tai hại của rượu và thuốc, chúng ta thấy treo nhan nhãn trên tường hình ảnh một lá gan, hay lá
phổi lành mạnh và bên cạnh là lá gan, lá phổi bị bệnh, chúng ta rùng mình thấy hình ảnh ghê rợn của lá gan, lá phổi bệnh hoạn và tự nói là sẽ
không mắc hai thói quen độc hại này. Đó là nhờ hai cái tấm hình làm gương được trưng bày trước mắt. Thông thường, chúng ta chỉ nhớ và
cám ơn vị bác sĩ đã chỉ cho biết điều hại của thuốc và rượu nhưng lại không nhớ mà cám ơn những người đã cho mình thấy lá gan lá phổi kia.
Nhất là người có lá gan, lá phổi bệnh hoạn, do được thấy tận mắt cái hình ảnh ghê rợn đó mà mình mới có cái ý chí mạnh mẽ là dứt bỏ thói
rượu chè. Từ sự biết ơn này, ta sẽ khởi lên tâm từ bi hướng về người bệnh tật. Khởi Từ Tâm cũng là một pháp môn tu tập trong đạo Phật.
Có những danh ngôn mà ta từng được nghe qua, tương tự như « Điều gì không giết tôi chết, chỉ làm cho tôi thêm sức mạnh » Vậy thì chúng
ta hãy cám ơn những đau khổ, thử thách, gian nan đã phải gánh chịu. Cha mẹ cũng thế, thương thì cho roi cho vọt, chỉ một mục đích là giáo
dục con cái được nên người. Tuy nhiên, ở thời buổi hiện đại này thì không còn chuyện cho roi cho vọt nữa, coi chừng bạn sẽ bị kiện ra tòa
đấy ! Người hạnh phúc là người biết cám ơn và biến cái Nợ thành Ơn. Luôn luôn biết cám ơn và không hề trách móc. Chúng ta đã trả xong
Nợ rồi đấy !
Hãy bước qua chữ Tình ! Chữ này mới là rắc rối…sự đời làm sao ! Có nó thì cuộc đời thêm hoa thêm hương. Không có nó thì như đi vào
một sa mạc khô cằn. Có nó thì cái gì cũng được tô bồi cho thêm phần đẹp hơn, tốt hơn, ngon hơn. Không có nó thì như ăn một món ăn mà
không có mắm có muối có gừng có ớt. Nhưng có nó thì cuộc đời cũng lắm truân chuyên, lên thác xuống ghềnh. Không có nó, có thể, có thể
thôi nhé, cuộc đời sẽ lướt đi êm ả như con thuyền trên sông không gợn sóng, quá lặng lẽ và…buồn tênh ! Con người, một tập hợp tâm sinh
lý, một động vật có lý trí và tình cảm. Biết suy nghĩ và có cảm xúc. Cảm xúc là những cảm nhận đến từ khối óc, không phải từ trái tim đang
đập trong lồng ngực như phần đông chúng ta đều tưởng như thế vì khi có một cảm xúc gì đó thì trái tim đập mạnh nhưng đó chỉ là sự biểu
hiện của cảm xúc qua thân thể, không phải từ trái tim mà có cảm xúc. Tuy nhiên chúng ta vẫn quen dùng và phân chia « tiếng nói của lý trí,
tiếng nói của con tim » tưởng chừng như lý trí là xuất phát từ trong đầu và tình cảm là từ trái tim nhưng thật ra, theo các nhà nghiên cứu của
khoa não bộ hiện đại thì lý trí hay tình cảm gì cũng đến từ bộ não. Bộ não, trung tâm điều khiển mọi ý thức hay nhận thức của tư duy, bao
gồm ý tưởng, trí nhớ, sự phân biệt, nhận biết, so sánh, cùng sự nhận thức đến từ các giác quan như mắt, tai, mủi, lưỡi, da thịt. Con người
nhận ra ánh sáng, hình tướng, màu sắc, âm thanh, mùi, vị, sự chạm xúc nơi thân đều đến từ bộ não. Con người biết cử động, ăn, uống, nhai,
nuốt, nói năng gì cũng từ bộ não. Đó là những hoạt động của thân mà ai cũng nhận ra vì được biểu hiện ra ngoài. Cũng từ bộ não mà ra
nhưng phần này không được biểu hiện rõ ra nơi thân và con người phải mượn hình ảnh, ngôn ngữ hay cử chỉ để diển tả, đó là phần trừu
tượng, phần của nội tâm, của tư duy, tư tưởng, sự sáng tạo, trí tưởng tượng và cảm xúc. Chính nơi phần cảm xúc này mả phát sinh ra các
tình cảm như vui, buồn, giận, ghét, yêu thương, ham muốn…Như vậy, phần cảm xúc này phát xuất từ bộ não xuyên qua 5 giác quan là mắt,
tai, mủi, lưỡi và thân (da thịt) và các đối tượng của 5 giác quan này như hình ảnh, âm thanh, mùi, vị và sự đụng chạm. Năm giác quan, sau khi
tiếp xúc với 5 đối tượng thì sẽ có phản ứng là những tình cảm yêu thích hay ghét bỏ, buồn hay vui, mừng hay giận, ham muốn hay không ham
muốn…
Theo Phật giáo thì con người có thêm giác quan thứ sáu là ý hay ý căn. Đối tượng của ý căn là tư tưởng, ý tưởng, ý nghĩ. Ngược lại với 5
giác quan nêu trên, thuộc về phần vật chất, thuộc cái thân, thì ý căn thuộc phần tâm lý, phần tinh thần. Hai phần vật chất và tâm lý này nương
tựa vào nhau mà tồn tại. Nhờ phần vật chất, 5 giác quan của cái thân mà phần tinh thần, hay tâm lý và cũng là tâm linh, mới có cơ sở để thể
hiện những hoạt động trừu tượng của ý căn. Như vậy, não bộ, năm giác quan và giác quan thứ sáu, ý căn, chỉ là công cụ hay phương tiện để
diển đạt những thông tin của chủ nhân đứng đằng sau những hoạt động của phần tinh thần hay tâm lý, tâm linh này mà tùy theo quan điểm
của mỗi tôn giáo hay tín ngưỡng, có thể là một Linh hồn, một Đại Ngã, một Phạm Thiên hay chỉ là một cái Tôi, cái Ngã và đơn giản hơn nữa,
chỉ là cái Tâm. Tất cả mọi người trên trái đất đều thống nhất một điều: dùng đại từ Tôi để chỉ cho cái thân tổng hợp của hai phần tâm sinh lý
của con người. Nhưng khi cái thân vật chất này chết đi thì còn cái gì lại là điều không có sự thống nhất nơi con người. Giới hạn của bài này
không bàn đến chuyện đời sau của cái Tôi mà dừng lại nơi cái Tôi hữu hạn với cái chữ Tình vây bủa nó đôi lúc đến ngạt thở !
Tình, có thể là thuần Việt cũng như xuất xứ từ Hán Việt, dùng để chỉ cái cảm xúc, sự rung động, một trạng thái tâm lý mà con người nhận
thức được nhờ trung gian của não bộ, hệ thần kinh, khi đứng trước một con người khác, một con vật, một sự vật hay sự việc. Cảm xúc này
tác động đến cả thân và tâm, có thể không được bộc lộ ra bên ngoài, chỉ giữ ở bên trong, nơi phần tinh thần, mà cũng có thể biểu hiện ra bên
ngoài qua cử chỉ, nét mặt, hành động và ngôn ngữ.Tình cảm con người thực sự ra chỉ quanh quẩn nơi con số 7. Thất tình gồm có: hỉ, nộ, ai,
lạc, ái, ố và dục. Tức là vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui vẻ, yêu thương, ghét và ham muốn. Đứng trước một đối tượng, là con người với con
người, với con vật, với đồ vật hay với sự việc, kể cả thiên nhiên, sau khi 5 giác quan đã nhận ra, hoặc hình ảnh, hoặc âm thanh, hoặc mùi, vị,
sự xúc chạm và khi sự suy nghĩ hay tư duy trong đầu, từ nơi Ý, giác quan thứ sáu, đã « đánh giá, phán đoán » xong là có ngay sự chấp nhận
hay không chấp nhận, giữ hay bỏ, đeo đuổi hay không, lập tức tình cảm sẽ nảy sinh trước đối tượng này. Nếu chấp nhận thì tình cảm sẽ là
vui mừng, vui vẻ, dần dần sâu đậm hơn để trở thành yêu thương và ham muốn hay thèm khát được sở hữu hay thụ hưởng tùy theo loại đối
tượng. Nếu là con người và tùy theo liên hệ quen biết, thân, không thân, bạn hay người yêu…v.v…mà mức độ tình cảm được tăng trưởng
theo cường độ của sự đeo đuổi, thèm muốn, hay khát khao, do đó mà tình cảm có thể chỉ được biểu hiện qua một cái bắt tay, một nụ hôn,
một vòng tay hay xa hơn nữa, tiến tới sự phối hợp tình dục. Nếu là một đồ vật, cái bánh ngọt chẳng hạn, thì tình cảm ban đầu chỉ là thích cái
bánh đó, dần dần tăng lên cho đến khi thèm muốn là phải ăn cái bánh đó. Nếu đối tượng là một con vật thì tình cảm ban đầu chỉ là vài cái vuốt
ve, ôm ấp vào lòng, sau đó là tìm cách đem về nuôi, thân cận ngày đêm. Với một việc gì đó thì tình cảm được biểu hiện là sự thích thú, hứng
khởi và con người sẽ nhập cuộc, bắt tay vào việc, đồng hóa mình với sự việc, hoàn toàn dấn thân, bỏ công bỏ sức cho sự việc, dồn hết cả
tâm trí, năng lực. Đối với thiên nhiên, như cây cỏ, hoa trái, con người cũng nảy sinh tình cảm thích thú, yêu thương và tìm cách để sở hữu,
rồi cũng chăm nom, săn sóc, tưới tẩm, nuôi dưỡng y hệt như đối với một con người hay con vật, đồ vật. Khi một tình cảm yêu thích, yêu
thương bắt đầu nảy sinh thì sẽ kéo con người đi xa hàng vạn dặm. Có thể trèo non lội suối, băng rừng vượt biển, bất chấp gian nguy chỉ để
đến gần và sở hữu đối tượng mà mình đã gieo tình cảm vấn vương. Dân gian lại có câu nói lên được cái tình mãnh liệt như vậy:
Yêu nhau chẳng quản đường xa
Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.
….
Thương nhau chẳng quản xa gần
Cầu tay không vịn cũng lần mà sang.