logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 12/12/2016 lúc 12:08:14(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,173

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết

1/ Người con trai của ca sĩ Châu Hà và nhạc sĩ Văn Phụng
Văn Phụng (1930 – 1999) là một nhạc sĩ nổi tiếng của dòng nhạc trữ tình thường mang tính chất vui tươi tại miền Nam trước năm 1975. Những bản nhạc của ông như Ô Mê Ly, Bức Họa Đồng Quê, Trăng Sơn Cước, Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn,v.v... đến nay vẫn còn được trình diễn. Ngoài việc sáng tác, Văn Phụng còn được xem là một trong những nhạc sĩ hòa âm hay nhất của miền Nam trước 1975.
Thời niên thiếu
Nhạc sĩ Văn Phụng tên thật là Nguyễn Văn Phụng, sinh năm 1930 tại Hà Nội, trong một gia đình nền nếp (bố làm thông phán), có 8 anh em mà ông là người thứ hai. Học đàn dương cầm từ nhỏ, được sự chỉ dạy của hai giáo sư dương cầm là bà Perrier và bà Vượng. Năm 1945, 15 tuổi, Văn Phụng đã đoạt giải nhất độc tấu dương cầm trong một cuộc thi tại Nhà Hát Lớn Hà Nội với nhạc phẩm “La Prière d’une Vierge” (Lời Nguyện cầu của một Trinh nữ)
Thời đi học, Văn Phụng là một học sinh xuất sắc. Ông học tiểu học tại trường Louis Pasteur, trung học tại trường Albert Sarraut (trường Bưởi Hà Nội). Sau khi đậu xong Tú tài I và Tú tài II, Văn Phụng học ngành Y theo ý muốn của cha ông. Nhưng chỉ được một năm, Văn Phụng bỏ ngành Y để theo âm nhạc.
Bước vào âm nhạc
Năm 1946, trong một lần chạy loạn về Nam Định, Văn Phụng tạm trú tại Nhà thờ Tứ Trùng ở chợ Cồn, thuộc giáo phận Bùi Chu, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Tại đây, ông gặp Linh mục Mai Xuân Đình. Vị linh mục này dạy cho ông về âm nhạc và giáo lý Công giáo.
Năm 1948, Văn Phụng trở về Hà Nội. Theo lệnh tổng động viên của chính phủ Pháp-Việt lúc ấy, ông gia nhập Ban Quân nhạc Đệ tam tiểu đoàn danh dự. Chính ở đây, Văn Phụng đã quen thân với những người mà về sau cũng trở thành các nhạc sĩ nổi tiếng của miền Nam như Nhật Bằng, Đan Thọ, Nguyễn Hiền, Vũ Thành, Văn Khôi..vv. Thời gian đó, ông được vị nhạc trưởng người Pháp gốc Đức tên là Schmetzer chỉ dẫn về nghệ thuật hòa âm phối khí.
Thời kỳ sáng tác
Năm 1948 cũng là năm Văn Phụng sáng tác bản nhạc đầu tiên “Ô mê ly” trong một lần vui chơi với bạn bè trong ban quân nhạc. Sau đó, ông thường trình diễn bản nhạc này tại các vũ trường ở Hà Nội. Bài hát đã được hoan nghênh nhiệt liệt và kể từ đó tên tuổi Văn Phụng được mọi người chú ý. Về sau “Ô mê ly” càng nổi tiếng hơn khi Ban hợp ca Thăng Long với Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Bắc (nhạc sĩ Phạm Đình Chương) và Hoài Trung trình diễn. Hiện nay, ca sĩ “gạo cội” Ánh Tuyết (Ánh Tuyết “nhỏ” sau này chứ không phải Ánh Tuyết “Em như cô gái hãy còn xuân” thời cũ) cũng thường hay trình diễn nhạc phẩm đó và các bản Tôi đi giữa hoàng hôn, Ghé bến Sài Gòn… của ông.
Khoảng năm 1954, Văn Phụng di cư vào Nam và trở thành nhạc trưởng của Đài phát thanh Quân đội VNCH, đồng thời phụ trách chương trình ca nhạc trên Đài phát thanh Sài Gòn.
Sau nhạc phẩm “Ô mê ly” nổi tiếng, Văn Phụng đã sáng tác khoảng 60 nhạc phẩm khác, trong đó có rất nhiều tác phẩm đặc sắc như “Trăng sơn cước”, “Yêu”, “Tôi đi giữa hoàng hôn”, “Ghé bến Saigon”, “Bức họa đồng quê”, .”Suối tóc”, “Mưa”, “Tiếng dương cầm”, “Giấc mộng viễn du”, “Tình”..vv.
Lạ lùng một điều là được coi như một trong số các nhạc sĩ tân tiến theo tân nhạc, nhưng Văn Phụng cũng sáng tác những bản có âm hưởng dân ca như: “Trăng sáng vườn chè” (phổ thơ Nguyễn Bính), “Các anh đi” (phổ thơ Hoàng Trung Thông), “Đêm buồn” (phổ ca dao), “Nhớ bến Đà Giang” (bản nhạc “ruột” của ca sĩ Hoàng Oanh… ). Ngoài ra, như đã nói bên trên, ông còn hòa âm cho nhiều cuốn băng nổi tiếng và được coi như một trong những nhạc sĩ hòa âm xuất sắc nhất của Sài Gòn thời đó.
Lưu vong
Năm 1978, gia đình Văn Phụng vượt biên và tới được một hòn đảo của Malaysia rồi sang Indonesia, cư ngụ tại thủ đô Jakarta và sống rất đầy đủ, thoải mái bằng việc chơi nhạc tại các phòng trà và câu lạc bộ âm nhạc.
Ông mất ngày 17 tháng 12 năm 1999 tại Indonesia do bệnh tiểu đường, thọ 69 tuổi. Sau đó bà Châu Hà đem các con (2 gái, 1 trai) sang Mỹ
UserPostedImage
Ông bà Văn Phụng-Châu Hà
Con trai ông bà Văn Phụng – Châu Hà
Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật do chính bà Châu Hà, cựu ca sĩ, vợ của nhạc sĩ Văn Phụng kể lại, xin mời quý bạn coi qua cho biết.
Ông bà Văn Phụng-Châu Hà chỉ có một người con trai duy nhất. Anh chàng này tuy lớn tuổi nhưng chưa lập gia đình, nên thường hay chát chít trên mạng để mong tìm được ý trung nhân. Qua mạng, anh làm quen với một cô gái trẻ ở Việt Nam mà webcam cho thấy cô khá xinh đẹp. Hai người tiếp tục chát rồi phone cho nhau. Sau một thời gian, càng lúc càng say đắm, anh cho cô gái biết là mình quyết định về Việt Nam để gặp mặt “người trong mộng”. Cô gái đã chuẩn bị sẵn bèn ra đón tại phi trường rồi đưa thẳng anh về khách sạn. Ngay hôm sau, cô dẫn anh về phường nơi cô ở để làm giấy hôn thú. Ở đấy, cô đã hẹn với một cô bạn đứng tên là người làm chứng. Thật ra, anh cũng ngỡ ngàng vì cô gái “đánh mau đánh mạnh” quá, nhưng cô ta đẹp, “người đẹp là nhất trên đời”, lại ăn nói khéo léo, tiếng Mỹ thông thạo, có vẻ trí thức, nên hồn vía anh lên mây, cô nói gì thì anh cũng nghe theo.
Anh trở lại Mỹ. Cô gái liên tục gửi email và gọi điện thoại hối thúc anh làm giấy tờ bảo lãnh cho cô sang Mỹ. Anh chưa kịp bảo lãnh thì chẳng may vắn số, trong lúc đang làm việc, bị trụy tim (cardiac collapse), gục xuống chết ngay tại bàn làm việc ở sở làm.
Hay tin “chồng sắp cưới” chết, cô gái ở bên Việt Nam bèn nhờ một tổ hợp luật sư Mỹ có văn phòng tại Việt Nam gửi đơn kiện sang Mỹ, đòi được thừa hưởng toàn bộ tài sản của “chồng” để lại, vì cô là “vợ” đã có hôn thú ở bên Việt Nam. Văn phòng luật sư đại diện tại Mỹ mời bà Châu Hà đến để thông báo tin tức.
Bà Châu Hà không chịu. Điều lạ lùng ít ai ngờ được là trước khi đi Việt Nam, người con trai biết mình bị bệnh đau tim, có thể chết do heart attack bất cứ lúc nào nên đã làm di chúc, để lại hết tài sản cho mẹ nếu có điều chẳng lành bất ngờ xảy đến với mình. Bà Châu Hà trưng bản sao di chúc đó ra. Các luật sư Mỹ biết là khó “nuốt” nổi vì giấy tờ bảo lãnh chưa có, hình ảnh đám cưới cũng không, ngoại trừ một tờ hôn thú bằng tiếng Việt đã được cơ quan công chứng của một quận tại Việt Nam dịch sang tiếng Anh thì ít có giá trị đối với tòa án Mỹ, trong khi đó bà Châu Hà có di chúc của người con trai đàng hoàng. Họ đấu dịu bằng cách đòi bà Châu Hà trả cho họ lệ phí là 20 ngàn đô-la để họ “clear the case”. Bà Châu Hà không chịu. Bà trả lời rằng bà không có tiền và không liên quan gì với cô gái ở bên Việt Nam. Họ hạ xuống còn 10 ngàn đô-la bà cũng không chịu. Về nhà, bà liên lạc với bạn bè và may mắn được một bà bạn Việt Nam có chồng là luật sư Mỹ giúp đỡ. Chỉ tốn kém có 500 đô-la về các giấy tờ là “clear” xong mọi việc.
Bà Châu Hà đã đem chuyện riêng tư này thuật lại với Đài phát thanh “Việt Nam Hải Ngoại” để than thở về nỗi buồn con chết của mình, đồng thời cũng để lưu ý những ai muốn về Việt Nam cưới vợ. Ý kiến của bà là nếu muốn cưới vợ tại Việt Nam thì phải hết sức thận trọng chứ như “người yêu” của con trai bà đấy, cô ấy không phải hạng vừa.
Chuyện buồn của bà Châu Hà đã được Đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại tại Mỹ thuật lại nhiều lần, ai thường nghe Đài phát thanh này đều biết chuyện đó. Để lại di chúc dù còn rất trẻ như con trai bà Châu Hà là điều rất tốt nhưng ít ai ngờ tới.
Bà Hoàng Đạo
Năm 1971, tôi (Đoàn Dự) từ miền Tây được đổi về dạy tại một trường ở Biên Hòa. Đến năm 1974 thì chị Nguyễn Từ Dung tức ca sĩ Từ Dung, con gái nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long (1907-1948), vợ của nhạc sĩ Từ Công Phụng, được đổi về dạy Anh văn tại trường.
Thời chúng tôi, tốt nghiệp ĐHSP được coi là tương đương với bằng cử nhân. Nhưng vì học ĐHSP, nếu thuộc ban văn chương thì phải học chung với sinh viên ở trường Đại học Văn Khoa, còn nếu thuộc ban khoa học thì học chung ở trường Đại học Khoa Học. Bởi vậy khi tốt nghiệp ĐHSP, hầu hết các sinh viên đều có bằng cử nhân Văn khoa hay Khoa học. Tôi biết chị Từ Dung đậu Cử nhân Anh Văn, còn chị có học ĐHSP hay không thì tôi không rõ. Ngoài ra, trước đây tôi tưởng cái tên “Từ Dung” của chị có liên quan với tên người chồng là Từ Công Phụng. Nhưng không, sau khi dạy cùng trường với chị, tôi mới biết tên thật của chị là Nguyễn Từ Dung, con gái nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, cháu gọi nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam bằng bác và gọi nhà văn Thạch Lam Nguyễn Tường Lân bằng chú, không liên quan gì đến họ “Từ” của NS Từ Công Phụng.
Sau năm 1975, chị có cô bé con gái thấy gọi tên là bé Ti-cu, khoảng 5 – 6 tuổi, thỉnh thoảng chở xuống trường chơi nhưng không thấy anh Từ Công Phụng xuống bao giờ cả.
Thế rồi khoảng 10 năm sau, tức năm 1983 hay 1984 gì đó, tự dưng chị biến mất, không đi dạy nữa. Cả ban giám hiệu lẫn bạn bè đều không biết tin tức gì về chị. Mãi mấy năm sau chúng tôi mới nghe tin chị và anh Từ Công Phụng đã chia tay nhau, anh Phụng đem bé Ti-cu vượt biên sang Mỹ còn chị Từ Dung thì không biết ở đâu tại Sài Gòn. Rồi lại mấy năm sau nữa, chúng tôi được tin chị lấy chồng người Mỹ và đã sang Mỹ.
Bẵng đi suốt bao nhiêu năm, mới đây tự nhiên tôi bỗng nhận được email của một người bạn ở Mỹ gửi cho một bài của chị Từ Dung viết về người mẹ của chị tức bà Hoàng Đạo. Cả nhà văn Hoàng Đạo lẫn chị Từ Dung đều là người của công chúng, vậy tôi xin đăng lên đây để quý bạn độc giả tờ báo thân yêu của chúng ta hiểu rõ một phần nào về gia đình nhà văn Hoàng Đạo. Sau đây là nguyên văn bài viết của chị Từ Dung kể cả hai chữ “Chấm hết” khá đặc biệt của chị ở cuối bài…
Tôi không biết phải bắt đầu ra sao khi viết về mẹ tôi, vì có rất nhiều điều để nói. Cũng có thể dưới con mắt chủ quan, tôi nghĩ bà là một trong những người phụ nữ phương Đông tuyệt vời nhất trên cõi đời này. Người mẹ dịu hiền mà tôi được may mắn biết đến, với đầy đủ những đức tính về công, dung, ngôn, hạnh của một người đàn bà Á Đông, đã hy sinh cả một cuộc đời mình cho chồng, cho con và cho những nghĩa cử từ thiện ngoài xã hội với nụ cười luôn trên môi cùng chiếc răng khểnh duyên dáng.
UserPostedImage
Bà Hoàng Đạo (Marie Nguyễn Thị Bình, 1913-1975)
Công, dung, ngôn, hạnh
Về mặt dung nhan, vẻ đẹp dịu dàng và đằm thắm của mẹ tôi đã hơn một lần làm rung động những người phái nam có địa vị quan trọng trong nhiều lãnh vực xã hội. Bà cao dong dỏng, thân hình đều đặn thanh tú, nước da mịn màng trắng trẻo, dáng đi yểu điệu và uyển chuyển, khuôn mặt trái soan, cặp mắt hơi hiếng (lé kim),mơ màng nhưng sâu sắc, miệng cười duyên dáng với chiếc răng khểnh và cặp môi đầy đặn.
Tôi có đọc vài cuốn sách viết về mẹ tôi với những lời mô tả thiên lệch bắt nguồn từ những ghen ghét nhỏ mọn. Những người viết này cố tình hạ thấp dung nhan, phẩm hạnh của bà vì đố kỵ nên những người từng được tiếp xúc với bà vô cùng bất mãn vì những dối trá trắng trợn đó. Theo ý một số những người có dịp tiếp xúc với bà, bà là một trong những người đẹp và hợp thời trang nhất tại Hà Nội vào những thập niên 1930-40. Ngay cả về sau, khi đã trên bốn mươi tuổi và có bốn người con lớn, bà vẫn là một phụ nữ có vẻ đẹp sang trọng và thanh lịch có tiếng ở Sài Gòn.
Tôi còn nhớ, trong lúc ở giá để nuôi các con ăn học thành tài, mẹ tôi đã từ chối khéo léo và khiêm nhượng những người đàn ông theo đuổi bà và về sau họ vẫn quý mến và nể phục tư cách của mẹ tôi. Một trong những người này đã qua đời đã giữ lòng thương quý mẹ tôi ngay cả khi bà đã tạ thế. Khi ra nước ngoài, ông gửi thơ về nhờ tôi đặt lên mộ mẹ tôi một bó hồng đỏ thắm mỗi tuần lễ, như ông vẫn thường làm trước khi ra đi! Mẹ tôi đã từ chối tất cả những người đàn ông đến sau, vì trong trái tim của bà chỉ có hình bóng của một người yêu duy nhất, đó là ba tôi, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long.
Về công, tức là tài năng khéo léo, ít có người phụ nữ nào có tài nấu nướng những món ăn Việt cũng như Pháp tuyệt hảo như mẹ tôi. Nào canh bóng, vây, bào ngư, nấm nhồi giò, chả nem rán, bánh chưng gói, món Tây thì súp legume, bò hầm đậu, cua phá xi…
Các ngày giỗ chạp, tiệc rượu linh đình, một mặt mẹ tôi nấu ăn và chỉ dẫn cho người giúp việc, một mặt tiếp đãi khách với nụ cười hiền thục trên môi. Ai cũng phải mến yêu bà. Chị Thu tôi đã lớn thì giúp một tay, còn tôi bé út nhất nhà (cách anh Lân đến 9 tuổi) chỉ chạy chơi và chực ăn trứng luộc trên bàn thờ!
Sau này mẹ tôi mở tiệm Chả Cá Thăng Long (1959) ở đầu đường Phan Thanh Giản. Tiệm rất đắt khách và là một trong những tiệm ăn sang trọng thanh lịch và ngon lành tinh khiết nhất Sài Gòn lúc bấy giờ.
Về ngôn, khoa ăn nói, mẹ tôi ăn nói nhã nhặn, điềm đạm và nhu thuận, lúc nào cũng giữ vẻ bình tĩnh. Bà cũng dạy các con phải ăn nói đàng hoàng. Ngoài phái nam ra, phái nữ cũng thương mến bà, bạn bè và các bà cô, dì hai bên họ đều tìm đến bà khi hoạn nạn, nhưng cũng có một số nhỏ đem lòng ganh tị và tìm cách bôi nhọ thanh danh bà.
Về phẩm hạnh, không ai có thể chối cãi rằng mẹ tôi là một phụ nữ đảm đang, hy sinh cả cuộc đời cho chồng, cho con mà không hề phàn nàn, than vãn.
Thời thơ ấu của mẹ tôi – ba mẹ tôi gặp nhau
Sinh ra trong một gia đình quý phái, trưởng giả, mẹ tôi lại có những đức tính đơn giản, tốt bụng hay thương người. Ông ngoại tôi làm tham tá công chánh dưới thời Pháp thuộc, bà ngoại tôi là một mệnh phụ đài các nhưng khôn ngoan, biết quản lý tài sản của ông tôi, biết tiết kiệm. Mẹ tôi lại là con một nên được lo toan rất chu đáo, quá chu đáo đến nỗi mẹ tôi cảm thấy ngộp thở.
Bà ngoại tôi tính tình độc đoán, muốn chồng con phải phục tùng theo cách sinh hoạt của bà. Thậm chí mẹ tôi chỉ được quyền chơi những đồ chơi bà ngoại cho phép. Mẹ tôi kể lại rằng một lần ông ngoại lén cho mẹ một con búp bê mà mẹ tôi thích, khi bà ngoại biết được, bà lập tức vứt đi. Mẹ tôi khóc và nhớ mãi chuyện ấy. Bà ngoại rất yêu mẹ tôi, nhưng cụ vẫn giữ tính khắc nghiệt đó nên có những đụng chạm cãi vã không thể tránh được giữa hai mẹ con.
Khi ba mẹ tôi gặp gỡ nhau, họ bị tiếng sét ái tình đánh choáng váng. Một bên cảm vì sắc, một bên mến vì tài. Ba tôi tuy ít nói, nhưng có lối châm biếm khôi hài thật duyên dáng và sâu sắc đã chinh phục được trái tim trong trắng của mẹ tôi. Tính cách khôi hài này được thể hiện trong tập “Trước vành móng ngựa”. Mối tình của ba mẹ tôi là nguồn hứng khởi của mối tình của Duy và Thơ trong “Con đường sáng”.
Là một phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm và chịu ảnh hưởng phong trào văn hóa mới vì mẹ tôi theo học trường Pháp và tốt nghiệp trường Pháp, bà thông cảm và hỗ trợ chí hướng phi thường của ba tôi, người đã từ chối chức tri huyện khi tốt nghiệp cử nhân luật, sau lại bỏ chức biện lý vì chống lại tòa án Pháp thuộc ngày đó. Điều này thể hiện trong tác phẩm “Trước vành móng ngựa”.
Phải là một phụ nữ phi thường mới thấu hiểu và tôn trọng một tâm hồn phi thường như ba tôi, và mới hy sinh tuổi xuân sắc để giúp đỡ chồng một cách đắc lực trong quá trình tranh đấu cho dân tộc và đất nước.
Lần đầu khi đi xem mắt mẹ tôi tại tòa biệt thự của bà ngoại tôi ở bãi biển Sầm Sơn, ba tôi đã bị tiếng sét ái tình. Mối tình đẹp như thơ đó đã bị cả hai bên gia đình phản đối, bên nội vì lý do bà nội tôi không chuộng gia đình trưởng giả, bên ngoại vì không cho là đủ môn đăng hộ đối. Nhưng ba mẹ tôi đã vượt thắng tất cả để tìm đến nhau và lập gia đình!
UserPostedImage
Nhà văn Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long, 1907-1948)
Một cuộc hôn nhân đầy hy sinh và chia ly
Chị cả tôi, chị Minh Thu, ra đời năm 1934, là tác phẩm đầu tiên của sự kết hợp tuyệt vời đó. Năm kế là anh Nguyễn Tường Ánh và cách một năm nữa là anh Nguyễn Lân. Ba mẹ tôi những tưởng anh Lân là con út rồi vì lúc đó ba tôi rất ít khi ở nhà, ông đã bị quay vào guồng máy thời cuộc lúc ấy. Khi ba tôi bị bắt, bị tra tấn tại sở mật thám và sau bị đi đày ở Vụ Bản, Chân Lạp Sơn, mẹ tôi rất lo buồn và đi lại tiếp tế nhiều lần.
Tháng Tám, 1946, ba tôi cầm đầu phái đoàn hòa giải, trong đó có cả người của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của bên Việt Minh, và có nhân viên bộ Công Chính là kỹ sư Đỗ Xuân Dung để xem tình hình nước lụt ở Việt Trì (ngã ba sông Hồng Đào) và ba tôi bị bắt. Khi được thả ra, ba tôi sang Trung Hoa gặp gỡ bác Nguyễn Tường Tam và các anh em khác. Thời gian đó mẹ tôi thường xuyên mang vật phẩm và tiền bạc sang tiếp tế cho ba tôi và các anh em khác. Ngoài ra, một tay bà lo dạy dỗ các con, chăm sóc mẹ già và cũng một tay bà lo toan hỗ trợ người chồng cách mạng lưu vong nơi xứ người. Phụ nữ như thế không phải ở thời đại nào cũng có!
Ba mẹ tôi lúc ấy như Chức Nữ Ngưu Lang, chẳng được thường xuyên gặp gỡ nên mỗi lần trùng phùng thật quý giá vô cùng! Tôi là kết qủa của một trong những lần gặp gỡ đó. Ba tôi gởi thư về dặn mẹ nếu là con gái thì đặt tên Từ Dung, con trai thì Duy hoặc Giản. Như vậy Từ Dung là tên cúng cơm của tôi chứ không phải tên hát xướng đặt theo một nhân vật khác! Từ Dung có nghĩa là hình Dung giống mẹ, vì ba tôi lúc nào cũng tưởng nhớ mẹ tôi.
Tôi ra đời ngày 30 tháng Mười năm 1946 tại Hà Nội trong tình thương yêu của cả nhà. Ba tôi vẫn ở biền biệt bên Trung Hoa nên chẳng thấy mặt tôi, chỉ nhận được tin tức qua thư tín gia đình.
Lần gặp gỡ cuối cùng của ba mẹ tôi năm 1948 tại Hongkong rồi sau đó ba tôi bị một cơn đau tim tạ thế trên đường đi xe lửa về Quảng Châu, lúc đó tôi được 19 tháng. Được tin sét đánh, mẹ tôi phải lo tiền bạc quay trở lại chôn cất ba tôi tại Quảng Châu. Hiện nay không còn biết mộ phần nằm đâu nữa vì các nấm mồ đều bị khai quật dưới chế độ Trung Hoa Cộng Sản!
Kể từ đó, mẹ tôi ở vậy nuôi con cho đến khi các con khôn lớn. Bố con tôi chỉ biết nhau qua hình ảnh thư từ. Tôi được nghe kể lại về ba tôi qua lời nói của mẹ, của anh chị và của cậu tôi, Như Phong Lê Văn Tiến. Tôi nghĩ rằng tôi được thừa hưởng óc khôi hài châm biếm của ba tôi, cũng như dòng máu văn chương chảy cuồn cuộn trong tim óc!
Tại Hà Nội, gia đình tôi sống tại đường Lý Thái Tổ, Hàng Vôi. Trường Hàng Vôi là ngôi trường đầu tiên trên con đường học vấn của tôi. Năm 1990, trước khi rời Việt Nam, tôi ghé thăm ngôi nhà gia đình và ngôi trường thơ ấu. Ngôi nhà xinh đẹp hai tầng có cây bàng trước sân giờ đây ngăn ra cho tám hộ ở, phòng ngăn bằng vải rideau. Bàn thờ tổ tiên vẫn còn nguyên chỗ cũ nhưng chỉ còn một ông lão còn nhớ về nguồn gốc căn nhà.
Trở lại năm 1954, chúng tôi rời căn nhà thân yêu lên đường vào Nam trên một chiếc phi cơ quân đội. Tôi mới có 8 tuổi nên chỉ nhớ là mẹ tôi vội trở lại miền Bắc để thanh toán mấy căn nhà ở Hà Nội của bà tôi và gom tiền bạc để sinh sống trong Nam. Lúc đó sắp sửa đóng cửa ra vào hai miền nên các anh chị, tôi lo lắng sợ mẹ tôi bị kẹt lại Hà Nội.
Khi mẹ về, chúng tôi hết sức mừng rỡ. Chúng tôi tạm ở chia với họ hàng bên ngoại một căn nhà đường Đặng Dung, Tân Định. Đó là thời gian đẹp nhất của đời tôi! Mẹ con, anh chị em đoàn tụ yêu mến nhau. Tôi ở tuổi bắt đầu ý thức được tình cảm quý báu của gia đình. Ý nguyện của tôi là anh chị em tôi sẽ trở lại quây quần như thời đó!
Khi đến học lớp Tư trường Huỳnh Thị Ngà thì tôi gặp khó khăn với cô giáo Nam Kỳ với giọng đọc chính tả mới lạ. Tôi có đến mười lỗi trong bài “Lạc vào rừng” vì tôi không hiểu gì cả. Các bạn chế nhạo accent Bắc kỳ và gọi tôi “Bắc kỳ rau muống”.Đó là bài học đầu tiên của tôi về kỳ thị địa phương dạy tôi sau này chống lại mọi thứ kỳ thị trên cõi đời này!
Đời sống tại Sài Gòn
Cùng lúc ấy, mẹ tôi mở tiệm phở và chả cá Thăng Long trên đường Trần Quang Khải, Tân Định, sau chuyển về tiệm chả cá Thăng Long trên đường Phan Thanh Giản. Sau này ngẫu nhiên quán cà phê nhạc Từ Dung của tôi mở năm 1978 cũng lại tọa lạc trên con đường Trần Quang Khải và người hầu bàn trưởng tại chả cá Thăng Long tên là anh Tư lại trở thành người pha cà phê chính của quán Từ Dung.
Tiệm chả cá Thăng Long do họa sĩ Nguyễn Gia Trí trang hoàng có một vẻ Á Đông trang nhã với những chiếc cột đỏ, những tấm bình phong và hình vẽ đặc biệt Việt Nam rất mỹ thuật. Một tấm tranh dân gian của Phạm Tăng treo dọc cả bức tường trong căn phòng riêng của quán. Bức tranh này sau tôi bị một tay văn sĩ hạng b, c gì đó lừa lấy mất!
Căn nhà mẹ tôi mua rộng lớn, một bên mở tiệm, còn một bên gồm năm phòng để gia đình tôi ở. Tiệm luôn đông khách tấp nập và các danh nhân, nghệ sĩ như Mặc Thu, Nguyễn Hoạt, bác Nhất Linh, Chu Tử thường xuyên đến ăn chả cá. Thế nhưng vấn đề tài chính không mấy khả quan vì mẹ tôi quá tốt bụng, luôn nuôi ăn ở và trả lương cho 6,7 người giúp việc nên tiền vào tuy khá nhưng ra cũng lắm. Mẹ tôi không bao giờ từ chối mở hầu bao giúp cho những người đến cầu cứu gia đình tôi!
Lúc đó chị Minh Thu, anh Tường Ánh lập gia đình nhưng lúc đầu anh Ánh vẫn ở chung với mẹ tôi. Các anh chị có gia đình riêng nên không còn gần gũi nhau như xưa. Tôi cảm thấy mẹ buồn nhưng không biết an ủi mẹ ra sao, chỉ biết rúc vào lòng mẹ. Khi anh Ánh và vợ dọn đi ở riêng trong một căn nhà mẹ mua cho anh, tôi được thừa hưởng căn phòng trống cạnh phòng anh Lân. Trước mặt hai căn phòng là một sân cement nhỏ trồng vài cây cảnh như cây trúc đào, cây mận sai trái vì tôi chôn xác con mèo dưới gốc cây.
Đằng sau phòng tôi là một cây trứng cá trái mọng nước và rất ngọt. Căn phòng này đã ghi một ấn tượng sâu đậm về thời thơ ấu của tôi sống êm đềm trong tay mẹ hiền. Có phòng riêng rồi nhưng tôi vẫn đòi ngủ với mẹ để được hít mùi da thịt của bà, thơm mùi nước hoa Guerlain và mùi phấn. Tôi cũng đòi mẹ ngâm thơ Kiều hoặc hát quan họ cho nghe như lúc còn bé tí.
Cũng vì vậy mà tôi rất thuộc Kiều và những bài thơ ru em. Mẹ tôi yêu nhạc Đông phương nhưng cũng mê nhạc cổ điển Tây phương, nên khi mẹ mất, gia đình tôi mở nhạc Bach và Beethoven bên quan tài để hương hồn mẹ tôi về thưởng thức, thay vì giọng ê a của các vị sư hay kinh của các cha cố!
Sau này mẹ tôi bắt đầu gặp khó khăn về tài chính nên phải bán đi một số nữ trang. Lúc đó là đầu thập niên 1960, quân đội Mỹ đổ sang Việt Nam nên mẹ tôi theo trào lưu cũng dẹp tiệm chả cá và cho Mỹ thuê một bên nhà để mở nhà hàng có âm nhạc tên là Kontiki. Đêm nào tôi cũng được nghe tiếng đàn hát vọng sang từ bên nhà hàng của ban nhạc Đăng Tiến, thỉnh thoảng tôi cũng sang hát chơi những bản như Autumn leaves, A very precious love, Mona Lisa….
Tôi khoảng 16 tuổi, tuổi đầy mộng đẹp và bắt đầu mơ đến tình yêu! Mấy năm sau mẹ tôi bán căn nhà rộng lớn đường Phan Thanh Giản và mua căn nhà nhỏ hơn có ba phòng ngủ và một căn gác ở Ngã năm Bình Hòa đường Chu Văn An. Nhiều người ngăn cản bà mua căn nhà này vì nó nằm cuối ngõ cụt và có một ngôi mộ đằng sau nhà nên theo địa lý rất xấu. Không biết có phải là mê tín không mà sau này mẹ tôi bị ung thư nặng và chết tại căn nhà đó, bà ngoại tôi cũng chết theo ở tuổi 98 vì quá đau đớn, mẹ tôi là con duy nhất của cụ, cậu tôi Như Phong Lê văn Tiến bị bắt giam cũng ở đó, gia đình vợ chồng tôi thì phân tán, chia ly.
Năm Mậu Thân 1968 nơi này là tử địa của tàn quân Việt Cộng, sau khi VC thất bại trong trận tổng công kích Saigon, đã rút lui về nơi đây. Ngôi nhà chúng tôi bị đạn bắn từ máy bay xuống lỗ chỗ đầy những vết đạn, cũng may là khi cả khu phố bốc cháy như một con rồng lửa thì bỗng dừng lại khi tới nhà chúng tôi. Thật là một phép lạ! Tôi giúp mẹ, bà ngoại và hai mẹ con bác giúp việc chạy khỏi nhà, chân phải chạy lung tung tránh xác VC nằm đầy ngõ và tránh tầm đạn của hai bên bắn nhau. Một ông hỏi ông khác “ai đánh ai?”, ông kia trả lời “quân mình đánh quân ta”!
Từ lúc đó mẹ tôi bị ung thư bên cánh tay trái và căn bệnh kéo dài tới năm 1975 thì mất. Vị bác sĩ đã hết lòng chữa chạy cho mẹ là bác Trần Ngọc Ninh, một người bạn thân của gia đình tôi. Hai bác sĩ khác của gia đình tôi là bác sĩ Phan Huy Quát và bác sĩ Kỳ Quan Thân. Cánh tay xinh đẹp, nuột nà, trắng bóc của mẹ tôi chỉ để đeo những nữ trang quý giá nay đã bị cắt đi đến hai lần, và sau cùng căn bệnh quái ác đã ăn vào tủy sống làm mẹ hôn mê trong 24 tiếng đồng hồ trước khi từ giã cõi đời. Trước khi bị hôn mê, căn bệnh ăn vào tủy làm bà thấy mọi vật nhuộm muôn màu muôn sắc.
Không có gì diễn tả nổi nỗi đau đớn của người mắc bệnh ung thư. Lầu 5 của Viện Ung Thư ở Gia Định phải rào lại vì nhiều người trong cơn đau đã nhảy xuống tự vận. Trong khoảng cuối cùng của cuộc đời đầy hy sinh, chịu đựng, đau đớn, bà vẫn tiếp tục làm phước, giúp người. Bà bảo trợ cho một số người bị ung thư trong Viện, trong số đó có một anh binh sĩ trẻ, đẹp trai như Alain Delon. Anh bị ung thư xương chân, chỉ trong vài tháng là từ trần. Mẹ tôi, lúc đó đã phải dùng tới codein cho bớt đau và bò lết dưới đất rên la, cũng vẫn lo cho anh trong những ngày chót của cuộc đời anh!
Tại sao một phụ nữ hiền hậu như mẹ tôi và có lòng thương người lại phải chịu một số phận đớn đau như vậy? Khi mẹ tôi mất đi, bà không bám víu vào một niềm tin tôn giáo nào cả vì bà không tìm thấy đức tin nơi cuối đời. Lúc gần chết, bà cảm thấy hoang mang… Khi nhìn ngắm xác mẹ trong chiếc áo trắng tôi mặc cho bà và cành hoa lan trắng trước ngực bà, tôi mới ý thức được nỗi mất mát lớn lao đến thế nào. Đã quá muộn để chiều chuộng mẹ, để nói rằng mẹ ơi con yêu mẹ, để cám ơn bà cho tôi đời sống hôm nay và niềm tin ngày mai.
Có một con bướm trắng bay quanh quan tài của mẹ nhiều lần trước khi hạ huyệt, có phải chăng linh hồn mẹ muốn từ giã các con lần cuối? Từ Dung xin thay mặt người quá cố cũng như các anh chị gửi lời cám ơn anh Sơn, con của cô Thế đã lo việc rải tro xuống biển cho bà và mẹ chúng tôi tại Việt Nam để linh hồn bà và mẹ chúng tôi được siêu thoát và xin Chúa ban phước lành cho anh và gia đình anh.
Chấm hết.
Từ Dung

Đoàn Dự
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.235 giây.