Tuy nhiên, cho dù Đà Lạt mộng mơ, Huế thùy mị, và vùng đồng quê dễ thương, Sài Gòn vẫn ghi đậm trong tâm khảm tôi. Khi tôi có dịp đi khắp nơi trong Sài Gòn, tôi mới ý thức được tại sao Sài Gòn được mệnh danh "Hòn Ngọc Viễn Đông" bấy giờ. Thật vậy, Sài Gòn đẹp lắm. Có những ngày tôi "dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai, từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay." Những con đường thơ mộng, bùng binh đông xe cộ, biệt thự im lìm tạo nên những tương phản độc đáo. Tôi say mê với đêm đô thị khi "màn đêm xuống dần, muôn ánh đèn đột nhiên như ngời sáng," và nhớ mãi những buổi chiều Sài Gòn thứ bảy "ngàn hoa trên đường."
Sài Gòn là thành phố lớn, đông dân. Nhiều người thuê mướn phòng hoặc gác ở trọ mang nặng nỗi buồn gác trọ vì "gác lạnh về khuya cơn gió lùa, trăng gầy nghiêng bóng cài song thưa," hoặc có căn nhà ngoại ô, "một căn nhà xinh có hoa thơm trái hiền; gần kề lối xóm, có cô bạn thân sớm hôm lo sách đèn." Như tại các thành phố lớn khác, Sài Gòn có đủ mọi hạng người và có những thay đổi trắng đen bạc tình bạc nghĩa. Nhưng người miền Nam không lấy làm chua chát hoặc có thái độ tiêu cực về thói đời gây ra "đường thương đau đày ải nhân gian," mà có một cái nhìn lạc quan bảo nhau hãy ngước mặt nhìn đời và kêu gọi "cười lên đi em ơi, dù nước mắt rớt trên vành môi."
Tình cảm con người nhiều khi thay đổi theo sinh hoạt ngoài đường và thời gian trong một ngày. Buổi sáng, khi rạng đông, ta thường có ý chí phấn đấu, tưởng chừng nghe "cung kèn rạng đông, đang uy linh lừng vang trên không, đang thiết tha hùng hồn, khơi chí gan Lạc Hồng." Buổi chiều thường diễn ra chậm chạp trong ngày, ngắn dài tùy theo mùa. Đối với một người lữ khách, buổi chiều có thể tạo nên một nỗi buồn man mác nào đó, "trên đường về nhớ đầy, chiều chậm đưa chân ngày, tiếng buồn vang trong mây." Buổi chiều của mùa thu còn gây nhiều xúc cảm, vang lại tiếng xưa. Khi trời trở tối, sau một ngày mệt mỏi, ta cảm thấy cô đơn khi đi trong xóm đêm hoặc buồn ngủ trong phố đêm. Nhưng không phải ai cũng muốn ngủ vào ban đêm. Thực vậy, hoa nở về đêm là dịp để những người đang yêu tìm ra được chân lý của tình yêu: "tình yêu đẹp nghìn đời là tình yêu khi đơn côi."
Sống trong miền Nam, nhất là Sài Gòn, mà không nhắc đến chuyện mưa nắng là một việc thiếu sót. Ở miền Nam thực ra chỉ có hai mùa: mưa và nắng.
Mưa ở Sài Gòn thường là những cơn mưa xối xả, nhưng không kéo dài. Tôi không biết mẹ tôi, khi nhìn trời mưa, có so sánh mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội hay không. Tôi chẳng bao giờ hỏi và chỉ thưởng thức cơn mưa Sài Gòn theo ý thích tôi, nhất là nghe những giọt mưa thu "thánh thót rơi" ngoài hiên, những giọt mưa trên lá "bỡ ngỡ, xôn xao, cuống quít, dạt dào," hoặc tiếng mưa rơi trong "nhịp mưa rơi nhuộm tím bầu trời, gió đêm vi vu muôn ngàn lời." Nhiều khi, tôi thấy chẳng thà như giọt mưa còn sướng, vì chẳng phải lo âu gì, mà lại được tự do, reo hò với lá cây. Tuy nhiên, mưa thường không gợi ra niềm vui hạnh phúc, như trong ca khúc "Tuổi đá buồn" khi "trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang, từng ngón tay buồn, em mang em mang." Mưa cũng khiến nhiều chàng trai nhớ đến người yêu, như trong ca khúc "Diễm xưa" khi "mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ."
Có những cơn mưa đêm ngoại ô tầm tã, hoặc những cơn mưa nửa đêm, khiến nhiều người "đêm chưa ngủ nghe ngoài trời đổ mưa từng hạt rơi." Có người tưởng tượng mưa rừng có linh hồn của chính nó, và kêu gọi "Mưa rừng ơi! Mưa rừng! Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên." Cơn mưa cũng là dịp các chàng trai thú tội với người em hiền như ma sœur khi "đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa." Những cơn mưa lại càng làm nhiều người đau buồn với kiếp nghèo, khi bước đi trên "đường về đêm nay vắng tanh," lắng nghe "rạt rào hạt mưa rớt nhanh."
Nếu mưa làm nhiều người bực bội vì bị ướt át, thì những tia nắng luôn luôn đem lại sức sống vui tươi. Thực vậy, nắng đẹp miền Nam không những tô điểm miền Nam mà còn đem sức sống và tình cảm cho con người miền Nam. Những tia nắng chiều gợi lại chuyện tình ngày nào khi "qua bến nước xưa lá hoa về chiều, lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa." Những buổi chiều nhạt nắng làm tăng tình yêu thương miền quê khi "hoàng hôn phai nắng, chân trời xa vắng, còn đâu tiếng tiêu buông." Những người lãng mạn tưởng tượng giọt nắng hồng là "giọt nắng đi hoang vào mắt em buồn" và nắng thủy tinh có "màu nắng hay là màu mắt em." Những kẻ thất tình, chơi vơi riêng một góc trời nào đó nhưng vẫn ví von "tình yêu như nắng, nắng đưa em về, bên giòng suối mơ." Nhiều chàng trai lãng mạn nhớ người yêu, khi "nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông."
Tuy nhiên, người miền Nam không bao giờ chịu nhận miền Nam chỉ có hai mùa: mưa và nắng. Đất nước miền Nam thơ mộng quá, con người miền Nam dễ thương quá, thì làm sao chỉ có hai mùa được? Nhiều người tưởng tượng miền Nam có đủ cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Mùa Xuân dường như lúc nào cũng liên quan đến Tết nhất. Mùa xuân miền Nam thật thơ mộng, lãng
mạn. Trong không khí vui nhộn của những ngày Tết, mọi người cùng nhấc ly rượu mừng, "chúc người binh sĩ lên đàng, chiến đấu công thành," đánh tan lũ giặc Bắc cộng xâm lăng. Người dân miền Nam kể câu chuyện đầu năm, khi người người "trên đường đi lễ Xuân đầu năm, qua một năm ruột rối tơ tằm." Có người hứa với người yêu rằng anh cho em mùa Xuân khi "nụ hoa vàng mới nở," và mơ tưởng mộng chiều xuân, tự hỏi, "mối tình đầu xuân ai thấu chăng?" Nhiều người gửi những cánh thiệp đầu Xuân hỏi nhau, "xuân đến rồi đây nào ai biết không?" Mùa Xuân cũng là mùa thiên hạ cưới nhau. Có những đám cưới đầu xuân thật dễ thương, của những đôi uyên ương là bạn từ bé. Một tục lệ người dân miền Nam không quên là đi coi bói, hỏi về chuyện tình tài tương lai, nhất là các cô muốn biết thiên duyên tiền định thế nào.
Trong cảnh chiến tranh, nhiều chiến sĩ đón mừng xuân với nỗi niềm bâng khuâng thiếu thốn, đón Xuân trong phút giao mùa, tiếc với người tình rằng "quà xuân anh chẳng có, gác giặc từng giờ, đời lính chiến lấy gì gửi về em?" Người lính nơi tiền đồn, trong phiên gác đêm Xuân, "đón giao thừa một phiên gác đêm, chào xuân đến súng xa vang rền." Người xa gia đình, viết thư cho mẹ cho biết xuân này con không về hoặc viết lời cảm ơn về những món quà Tết như "bánh chưng mẹ già tự tay gói gửi cho con."
Mùa hè là mùa vui tươi nhưng cũng là mùa buồn cho tuổi học trò vì xa trường trong ba tháng. Mỗi độ hè về, hoa phượng rực nở, trong khi mọi người vui vẻ vì "trời hồng hồng sáng trong trong," có những cô cậu học trò mang nặng nỗi buồn hoa phượng. Có những thương ca mùa hạ, khi "tiếng ve nức nở chan chứa, sân trường còn lại hai đứa." Vào những ngày cuối năm học, các cô cậu học trò thường ghi lại cảm nghĩ trong quyển lưu bút ngày xanh trước khi xa nhau. Thế rồi, ngày họp mặt lần cuối đến, bạn bè bắt tay từ giã. Ngày tạm biệt là ngày buồn cho mọi học sinh khi "bên xác hoa âu sầu vì tả tơi, ngàn ve buông tiếng nỉ non như thương cho người đi." Trong cảnh chiến tranh, mùa hè có nhiều ý nghĩa. Có người muốn đưa em vào hạ, hứa với người tình "mùa hè năm nay anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi ngày." Mùa hè còn là mùa nắng ngập, trắng xóa thiên nhiên, gợi những cuộc tình dở dang. Nhiều chàng trai thương nhớ hạ trắng, "gọi nắng, trên vai em gầy đường xa áo bay."
Từ mùa hè qua mùa thu có sự thay đổi của sắc hoa màu nhớ khi "hoa phượng rơi đón mùa thu tới." Mùa thu thường đem lại nỗi buồn vì cảnh lá rơi ngập đường và màu sắc tàn úa của hoa lá. Có người nhớ mùa thu chết khi "ngắt đi một cụm hoa thạch thảo." Tuy nhiên, có người không đồng ý, tin rằng mùa thu còn đó, và kêu gọi, "Xin đừng nói, xin đừng nói thu chết rồi! Không, thu vẫn sống, đem hình bóng cho cuộc đời." Cho dù mùa thu sống hay chết, vẫn có những giọt nước mắt mùa thu "khóc ai trong chiều," hoặc tiếc nuối thu sầu, khi "mùa thu thưa nắng gió mang niềm nhớ, trời chiều man mác buồn nát con tim." Buổi chiều mùa thu dễ tạo ra hoài cảm đến nỗi "lòng cuồng điên vì nhớ, ôi đâu người, đâu ân tình cũ?" Cảnh thu vàng gợi nhiều cảm xúc khi "lang thang trên đường; hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn hương." Tình cảm do ngọn trúc đào còn ví von "mùa thu lá rụng bay vào sân em."
Nhưng không phải mùa thu nào cũng gợi đến buồn thương, chia ly, tang tóc. Người miền Nam là người yêu đời, vì vậy thiên nhiên buồn bã không làm mất đi tinh thần vui tươi và lạc quan. Mùa thu đem đến ước mơ đoàn tụ, khi chàng trai tặng mùa thu cho em, với những lời ngọt ngào lãng mạn, và ao ước "hai chúng ta sẽ cùng chung lối, em với anh mơ mùa thu ấy tình ta ngát hương." Mùa thu còn được gọi là mùa thu yêu đương khi chàng trai muốn "đôi ta mãi như người tình, vui đời hẹn hò, khi trên giòng suối, khi trên đồi buồn."
Cho dù mùa thu đem lại nỗi buồn chia ly hay vui đời lãng mạn, nó luôn luôn được đi theo bởi mùa Đông lạnh lẽo khiến nhiều người cảm thấy cô đơn. Có người day dứt với chuyện tình dang dở, than thở mối sầu đông. Có người tiếc nuối mùa đông của anh và luyến tiếc mối tình chết theo mùa đông. Mùa đông cũng là mùa tiễn biệt và mong chờ hội ngộ, khi sương lạnh chiều đông "vương tiếng thở của người nguyện đợi chờ nghẹn ngào giờ tiễn đưa." Thời tiết lạnh lẽo làm nhiều người lãng du cô liêu nhớ đến người thương yêu trong cảnh đêm đông.
Tuy nhiên, mùa đông còn là dịp lễ Giáng Sinh khi mọi người, bất kể tôn giáo, hân hoan mừng ngày Chúa sinh ra đời. Tuy gia đình tôi theo Phật Giáo, tôi vẫn thường cùng các bạn đi tới các nhà thờ quanh Sài Gòn, nhìn đám đông người, nhất là các cô gái xinh xắn, đi dự lễ trước buổi ăn réveillon, ngắm nhìn cảnh vật thu nhỏ trưng bày của hang Bê Lem, nơi "đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa," và lắng nghe bài thánh ca buồn, khi "Noel năm nào chúng mình có nhau."
Thiên nhiên và khí hậu có ảnh hưởng đến tình cảm và cuộc sống người miền Nam. Nhưng cho dù mưa nắng, xuân hạ thu đông, đa số người miền Nam có tinh thần lạc quan, và nhẫn nại để vượt qua những khó khăn của cuộc đời. Đối với họ, sức mấy mà buồn, và khi nỗi buồn đến, họ chỉ nhún vai, "buồn ơi bỏ đi Tám," hoặc nghèo mà không ham, "nghèo mình nghèo mà mình không ham." Ngoài ra, người miền Nam ưa chuộng cuộc sống tự do, nghệ sĩ. Chỉ cần có một cây đàn là cuộc sống trở nên Ô mê ly "đời sống với cây đàn, tình tính tang dạo phím rồi ca vang." Có người thích cuộc sống lãng tử, không ràng buộc, để rồi ngày nào đó, dừng bước giang hồ. Có người thích sống với thiên nhiên, rừng núi, đốt ngọn lửa bừng sáng trong "màn đêm chơi vơi buông lơi, gió rừng reo xuyến xao khung trời." Những tay giang hồ anh chị với cuộc đời phóng đãng có vết thù trên lưng ngựa hoang vì họ là những con "ngựa hoang nào dẫm nát tơi bời, đồng cỏ nào xanh ngát lưng trời." Những thiếu nữ miền Nam còn được biểu hiện qua thiên nhiên tạo nên huyền thoại người con gái với "loài ngọc đá mang tên em," "loài hoa trắng mang môi em," hoặc "loài rêu biếc mang mắt em."
Trong khi gia đình, học đường, tình yêu, con người, đất nước, và thiên nhiên là những hình ảnh thơ mộng và tốt đẹp của miền Nam hiền hòa, cuộc chiến tranh tạo bởi cộng sản Bắc Việt là một thảm kịch bi thương cho cả hai miền Nam Bắc. Hàng chục ngàn thanh niên miền Bắc rời bỏ gia đình quê nhà, theo lệnh đám lãnh đạo cộng sản dưới sự điều khiển của cộng sản Nga Tàu, xâm lăng miền Nam bắt đầu từ cuối thập niên 1950 và leo thang dần dần, gieo rắc máu lửa kinh hoàng và tàn phá đất nước khắp nơi.
Cực đỉnh của cuộc chiến có lẽ là Tết Mậu Thân năm 1968. Tại Sài Gòn, quân cộng sản bị đẩy lui, trà trộn vào khu dân cư, khiến cuộc phản công của quân lực miền Nam Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thật khó khăn. Nhà cửa cháy, dân bồng bế chạy thoát nơi giao chiến trên khắp tám nẻo đường thành. Đó là lần đầu tiên tôi nghe tiếng trực thăng quần trên không cả đêm và thấy những đóm mắt hỏa châu "bừng lên trong màn tối." Sự tàn ác dã man của những người cộng sản được kể lại qua câu chuyện một đêm, khi lũ quân cộng sản bắn giết đứa bé thơ, để bà mẹ đau thương "đưa môi hôn trán con yêu giá lạnh, vuốt ve lần cuối trước khi xa con suốt đời." Trận chiến tại Huế là trận khốc liệt nhất và cho thấy bản chất dã man vô nhân đạo của cộng sản Bắc Việt qua cuộc thảm sát hàng ngàn người dân hiền lành vô tội. Có người ngã vào cơn mê chiều khi lũ cộng sản là "đàn con nay lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng" khiến "đồi Ngự Bình thịt xương khô sườn đá, Kim Long ơi, bờ lau ngóng, chuông chùa tắt rồi." Người dân Huế không quên câu chuyện một chiếc cầu đã gẫy khiến cho "cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi, nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài."
Sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân, lệnh Tổng động viên được ban hành. Tôi có những người anh họ gia nhập quân đội trước đó. Một người anh trong nhà tôi gia nhập quân đội dưới lệnh Tổng động viên. Ba mẹ tôi không muốn anh đi chiến dịch nhưng không làm sao hơn được. Trong những tháng ngày anh ở trong trung tâm huấn luyện, gia đình chúng tôi thăm anh đều đặn và biết đến vườn Tao ngộ qua những lần thăm viếng đó. Rồi sau đó, qua mấy năm, những đứa bạn ngày nào cùng lớp trong trung học lần lượt gia nhập quân đội, trong khi một số lớn khác, kể cả tôi, có hoãn dịch vì lý do học vấn. Những cô gái có người yêu đi lính viết những bức tâm thư "nói rằng nước non đang mong, đi quân dịch là thương nòi giống." Chiến tranh đã cho người vào cuộc chiến, những thanh niên phải gác bút thư sinh, giã từ những người thân yêu và nhất là người tình, trả lại em yêu "khung trời đại học, con đường Duy Tân cây dài bóng mát."
Các người anh và các bạn tôi đi theo đủ mọi binh chủng và các ngành đặc biệt và ở rải rác khắp nơi trên lãnh thổ miền Nam. Những cô gái có người yêu đi lính thường hỏi giờ này anh ở đâu? Nhưng dù họ thuộc binh chủng nào, họ là những người trai xếp áo thư sinh, nguyện trên đầu súng "ta đi tổ quốc đã vươn mình, trên lưỡi lê căm hờn hờn căm như triều sóng."
Một đứa bạn tôi đi Hải quân. Đối với nó, cuộc đời chỉ là tình ca người đi biển, "chiều nay ra khơi, thoáng thấy mắt em nhuốm buồn." Con tàu lênh đênh trên đại dương vẽ ra nhưng cụm hoa biển trắng xóa. Khi người yêu trách móc không viết thư, nó bào chữa lính mà em vì "tàu lắc lư làm sao viết thư tình." Những chàng phi công phản lực còn thấy tuyết trắng trên không khi con chim sắt "vượt cao vút cao, mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngần." Những phi công lãng mạn lái phi cơ trong một chuyến bay đêm mơ màng tưởng tượng sứ mạng mình là "níu áo hằng nga, ngồi bên dẫy ngân hà." Những chiến sĩ lục quân có lẽ thực tế hơn có thể vì họ đối diện quân thù gần gũi hơn. Một người anh họ của tôi là sĩ quan nhảy dù, nhưng anh rất hiền, nói năng nhỏ nhẹ. Tôi không thể hình dung anh là thiên thần mũ đỏ "với áo hoa mũ đỏ chân mang bốt đờ sô, khi sa trường khi trong thành phố," như nhiều lính dù lên điểm vì "là thiên thần giữa trời mây."
Có người đóng quân ở các tỉnh biên giới là kẻ ở miền xa, trải qua những đêm trên vùng đất lạ, đối diện vùng trước mặt của quê hương thân yêu đang bị giày xéo bởi đoàn quân xâm lăng từ miền Bắc. Cảnh tượng nửa đêm biên giới khiến nhiều chiến sĩ trẻ nhớ đến người mẹ hiền. Có người thức khuya qua đêm tiền đồn cô đơn, lạnh lẽo, nghĩ đến gia đình và người yêu. Có người đi hành quân trên các vùng núi non, gần làng quê gia đình, ngồi ôm súng gác trong không khí dày dặc sương trắng miền quê Ngoại, và nhớ đến những ngày họ ở bên người tình, ngồi bên nhau trong quán nhỏ tâm tình hoặc nằm trên bãi cỏ đầy bông cỏ may, nhìn bầu trời trong xanh. Trong những cuộc quân hành, họ "qua vùng khô cặn, mồ hôi thành biển mặn trên môi," hoặc qua những khu rừng lá thấp với "rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi." Với những người có bạn gái, họ có vài lời tình viết vội cho người yêu trong những lúc nghỉ ngơi trong cuộc hành quân. Vì đi xa lâu ngày, nhiều người lo âu người yêu sẽ quên mình. Họ thường hỏi người yêu sao chưa thấy hồi âm và bày tỏ nỗi âu lo, khiến người yêu vội viết thư để trả lời một câu hỏi "Anh vắng nhà hoài em có nhớ?"
Các anh, các bạn tôi, và những người chiến sĩ VNCH, tham gia nhiều trận đánh kinh hồn trên bốn vùng chiến thuật. Là lính trận xa nhà, họ rất nhớ gia đình, bạn bè, người tình, và mong mỏi được nghỉ phép về thăm nhà. Họ không vui mỗi khi bị cấm trại một trăm phần trăm không được đi phép. Họ khao khát những ngày nghỉ phép và "mong những khi gần nhau dù không lâu là bao nhưng sẽ đẹp bằng chuyện thần thoại hoang đường." Có người được 24 giờ phép về thăm gia đình và bạn gái như người xa về thành phố. Có người được ở lâu hơn, độ một tuần. Nhưng rồi, ngày vui qua mau, các bạn tôi lại trở về chiến trường, bỏ lại thành phố sau lưng. Trước khi các bạn tôi giã biệt Sài Gòn, chúng tôi thường gặp nhau biệt kinh kỳ tại các quán cà phê và uống ly cà phê cuối cùng vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi tụi nó trở lại chiến trường. Với những người có người yêu hoặc vợ, mỗi lần ra đi là quyến luyến nói lời tạ từ trong đêm và hứa hẹn không bao giờ ngăn cách. Có đứa chia sẻ tâm sự người lính trẻ với người yêu rằng "từ khi anh thôi học, từ khi đôi lứa đôi đời, từ sông ngăn núi trở, tạ từ không nói nên lời."
Có những lúc trăng tàn trên hè phố tôi thấy những "người trai nơi chiến tuyến, súng trên vai bước lê qua đường phố." Nhiều người là bạn thời còn đi học và tình cờ mười năm tái ngộ tại đơn vị, vui mừng "suốt đêm không ngủ bên tách cà phê đen chúng ta ôn chuyện đời." Những cảnh gặp nhau trước khi các người lính lên đường làm đậm đà tình anh lính chiến. Họ không cần phải nhắc nhở nhau xin anh giữ trọn tình quê vì ai cũng thề không phản bội quê hương.
Đa số chiến sĩ VNCH có người yêu thường có hai mối tình: tình yêu tổ quốc và tình yêu trai gái. Nhiều người tự hào về người tình và quê hương và tính chất đa tình trong tình lính. Nhưng chuyện tình của những người chiến sĩ VNCH thường có chuyện buồn thương vì xa cách và những hậu quả đau thương của chiến tranh. Có những cặp vợ chồng khi hội ngộ thường trộm nhìn nhau vì bỡ ngỡ ngại ngùng sau thời gian xa cách, và người vợ "mơ thấy một ngày con níu chân cha." Có người băn khoăn hỏi người tình, nếu em không là người yêu của lính, thì "em sẽ nhớ ai Chủ Nhật trời xinh?" Những người đi hành quân thường nghĩ đến người yêu dọc đường, khi đi qua những đồi hoa sim "tím chiều hoang biền biệt," hoặc hái hoa trinh nữ khi "qua một rừng hoang gió núi theo sang rũ bụi đường trên vai." Nhiều khi, trong cuộc chiến, người ra đi không phải là người lính trận mà là người em gái hậu phương của họ, từ cô vợ trẻ khâu vá áo anh sứt chỉ đường tà cho tới người hôn thê trong mối tình thiên thu.
Những lá thư viết từ KBC (Khu Bưu Chính) còn là nhịp cầu tri âm móc nối những người lính và những người em gái hậu phương. Những mối tình anh tiền tuyến em hậu phương nhiều khi dẫn đến hôn nhân với đám cưới nhà binh khi "em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt vời." Đôi khi, cuộc sống hôn nhân với người lính có những chuyện ghen tuông, đưa đến cảnh hờn anh giận em, khiến anh chồng lính phải van xin, "Anh đi lâu lâu mới về, yêu thương cho nhau dài nhé, mười lăm ngày phép đi vèo buồn nhớ mang theo."
Trong khi những người chiến sĩ VNCH chiến đấu nơi tiền tuyến chống lại quân cộng sản xâm lăng, thì những người thân yêu nơi hậu phương lo âu đêm ngày. Nhiều cô gái xa vắng chồng hay người yêu đi ra ngoài chiến trường, nhớ thương người yêu, "ngày anh xa vắng em không trang điểm đợi chờ, những đêm gió lạnh đầu hè, khuê phòng phủ kín tâm tư," hoặc bày tỏ tình chàng ý thiếp, "từ chàng xa vắng, lên đường ruổi rong chiến chinh."
Nhờ những người vợ, người yêu, người em nơi hậu phương, những chiến sĩ VNCH trở nên cứng cáp và có niềm tin mạnh mẽ. Những cô gái hậu phương, có người yêu là lính hay không, thường ca ngợi lính, cho biết tôi nhớ tên anh bằng cách "viết tên anh trên lá trên hoa," "trong trái tim tôi," "trên đá, trên vôi," hoặc "ngập nẻo đường đi ngàn lối." Có người bày tỏ nỗi lòng thương anh qua lời tri ơn,"non sông cho sức trai xây đắp, đi lên người chiến binh đất nước," hoặc khẳng định tình yêu anh đâu em đó. Trong những dịp đơn vị trở về thủ đô, những cô gái hậu phương vui mừng đón chào anh về thủ đô "chúng tôi chờ mong, với vạn niềm tin với muôn tình thương." Những người em hậu tuyến này là những cánh hoa thời loạn tô điểm những "câu chuyện tình người hùng và giai nhân." Do đó, tuy tay cầm súng, những chiến sĩ VNCH vẫn hiểu sức mạnh của tình yêu và phải thốt lời đa tạ, "Tôi xin đa tạ ngày nao súng phải thẹn thùng, ngày nao súng phải lạnh lùng."
Không ai muốn là người chết trở về cho dù "từ ngục tối hay mộ sâu," nhưng đó không là một sự lựa chọn. Rất may là những người anh và bạn bè tôi vẫn còn nguyên vẹn sau cuộc chiến, trừ người anh họ đi lính Nhảy dù tử trận. Có rất nhiều người không được may mắn. Có người tặng kỷ vật cho em "là hòm gỗ cài hoa," hoặc "trên chiếc băng ca," hoặc "đôi nạng gỗ." Có người trở thành thương binh khi ngày trở về, "bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre." Nhiều người nhớ người thương binh khi "chàng về, chàng về nay đã cụt tay." Nhiều người là những chiến sĩ vô danh, hoặc trở thành người tình không chân dung "để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy này." Có những người vợ tưởng như còn người yêu cho dù "ngày mai đi nhận xác chồng."
Cuộc chiến đã đưa nhiều người vào lịch sử. Bài hát "Huyền sử ca một người mang tên Quốc" ghi nhớ phi công Phạm Phú Quốc. Ca khúc "Người ở lại Charlie" tưởng nhớ trung tá Nguyễn Đình Bảo, tử thủ tại chiến trường Charlie. Ca khúc "Anh không chết đâu anh" vinh danh "người anh hùng mũ đỏ tên Đương."
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt, chính phủ VNCH đặt ra chương trình Hồi Chánh kêu gọi ngày về của những người lầm đường lạc lối theo cộng sản, "tung cánh chim tìm về tổ ấm," và đón chào họ về dưới mái nhà, "người ơi, mau về đây, về bên bếp hồng tay cầm tay." Chương trình này đã đem lại hạnh phúc cho hàng trăm ngàn người cộng sản trở về với chánh nghĩa quốc gia.
Những ước mơ của người miền Nam rất đơn giản. Có người chỉ mơ ước cho tôi được một lần "nhìn hoa giăng đầu ngõ." Có người biểu lộ ý tôi muốn "tìm đến thiên nhiên," hoặc "sống như loài hoa hiền." Có người nguyện cầu qua lá thư trần thế cầu mong "an vui cho người đầu tuyến, trẻ thơ yên tâm sách đèn, để mẹ hiền con hết ưu phiền." Cho dù đất nước khốn khó và chiến tranh gây cảnh điêu tàn, ai cũng xin chọn nơi này làm quê hương vì "ta còn những người thật yêu nhau biết bao thiết tha." Các người anh, các bạn tôi, và tôi mong mỏi ngày nào qua cơn mê đời để trở về cuộc sống bình an. Khi hiệp định Paris được ký vào năm 1973, ai cũng mơ ước một mai giã từ vũ khí để "trả súng đạn này, ôi sạch nợ sông núi rồi." Nhưng cuộc chiến cứ tiếp tục, ngày càng khốc liệt. Tôi đã gặp những người chiến sĩ như các anh các bạn của tôi "trên khắp nẻo đường đất nước mến yêu" và ai cũng có cùng một tinh thần chiến đấu bảo vệ đất nước như nhau và mơ ngày đất nước thanh bình.
Nhưng giấc mơ thanh bình đó tiêu tan vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi cuộc chiến tranh súng đạn chấm dứt, chỉ để nhường lại những năm tháng đen tối nhất của người dân Việt Nam trong ngục tù cộng sản. Những bài hát miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 là những ngọn nến soi sáng ngục tù tăm tối đó và khơi dậy sức mạnh vĩ đại của tình yêu và tổ quốc Việt Nam. 304 bài hát ở trên được chọn để nhớ ngày 30 tháng 4.
8/4/2017
2017 Cao-Đắc Tuấn