Nữ danh ca Thái Thanh qua đời Garden Grove: Theo những tin tức vừa loan báo, nữ danh ca Thái Thanh vừa qua đời hôm 17 tháng 3 tại quận Cam, miền nam tiểu bang California, hưởng thọ 86 tuổi.
Bà được coi như là một tiếng hát hàng đầu của nền tân nhạc Việt Nam trước năm 1975 và được mệnh danh là “tiếng hát vượt thời gian”
Thái Thanh tên thật là Phạm Thị Băng Thanh, sinh năm 1934 tại Hà Nội, trong một gia đình gắn bó với âm nhạc. Thái Thanh là em ruột của ca sĩ Thái Hằng (vợ của nhạc sĩ Phạm Duy) và là em gái kế của nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Đình Chương (ca sĩ Hoài Bắc). Bà còn có một người anh cùng cha khác mẹ khác là Phạm Đình Viêm (ca sĩ Hoài Trung). Họ đã cùng nhau dựng lên ban hợp ca Thăng Long vang danh một thời. Không thông qua một trường lớp đào tạo nào cả nhưng Thái Thanh, ngoài năng khiếu bẩm sinh ra, còn được các anh chị rèn luyện từ nhỏ, giọng bà có âm vực rộng, nên thể loại âm nhạc của bà rất phong phú, đa dạng.
Thời kỳ đầu bà theo chị là ca sĩ Thái Hằng tham gia kháng chiến, chuyên biểu diễn phục vụ ở các chiến khu. Nghệ danh Thái Thanh bắt đầu từ đó. Năm 1951, bà theo gia đình chị ruột là Thái Hằng – Phạm Duy vào Sài Gòn lập nghiệp, và tiếp tục ca hát. Thái Thanh trở nên nổi tiếng với những ca khúc tiền chiến được đông đảo quần chúng yêu thích, đặc biệt là giới trí thức. Tiếng hát của bà xuất hiện trong phần lớn các chương trình phát thanh, truyền hình và phòng trà ở Sài Gòn suốt hơn hai thập niên, dường như không có đối thủ cạnh tranh.
Năm 1956, Thái Thanh kết hôn với Lê Quỳnh, một trong số nam diễn viên nổi tiếng thuộc lớp đầu tiên của điện ảnh miền Nam.
Năm 2000, bà bị tai biến mạch máu não phải nhập viện cấp cứu. Năm 2005, gia đình đã tổ chức một đêm nhạc thính phòng mang tên “Vinh danh Thái Thanh, tiếng hát vượt thời gian” tại Montreal – Canada với sự tham gia của Thái Thanh cùng nhiều ca sĩ nổi tiếng của thế hệ sau như: Tuấn Ngọc, Ý Lan, Trần Thu Hà…
Sự ra đi của bà đã để lại nhiều thương tiếc cho các ca sĩ, nghệ sĩ đồng nghiệp thuộc nhiều thế hệ bởi bà là tấm gương sáng trong lao động nghệ thuật. Khán thính giả yêu mến tiếng hát của bà cũng bày tỏ sự thương tiếc, vì nhắc đến bà không thể quên các ca khúc: “Ngày xưa Hoàng Thị”, “Nghìn trùng xa cách”, “Áo anh sứt chỉ đường tà”, “Làng tôi”…
Em hát tan vàng , ca nát đá… Khi được tin Thái Thanh bị bệnh Quên, Thái Thanh vào sống ở Nursing Home, tôi đăng bài viết này về Nàng. Phần đầu của bài này được tôi viết ở Sài Gòn khoảng năm 1970.
Hôm nay – ngày 15 Tháng Tư 2015, sống những ngày cuối đời ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi sửa lại bài này, tôi viết thêm một số đoạn vào bài này, để tưởng nhớ Thái Thanh, để thương tiếc Thái Thanh.
Tôi tưởng nhớ Thái Thanh, tôi thương tiếc Thái Thanh ngay khi Nàng sống trong cõi đời này như tôi.
Nay Thái Thanh đang sống những ngày cuối đời nàng.
Nay tôi đang sống những ngày cuối đời tôi.
Thái Thanh trên Trang Wikipedia: Thái Thanh – Phạm Thị Băng Thanh – sinh ngày 5 tháng 8 năm 1934 tại Hà Nội – được mệnh danh “Tiếng hát vượt thời gian” – là một nữ ca sĩ nổi tiếng, được xem như một trong những giọng ca tiêu biểu nhất của tân nhạc Việt Nam. Bà thành danh từ thập niên 1950. Bà thường được coi là “Đệ Nhất Danh Ca” của dòng nhạc tiền chiến cũng như nhạc tình miền Nam giai đoạn 1954-1975. Bà không theo học một lớp nhạc chuyên nghiệp nào, chỉ tự luyện giọng từ nhỏ theo các lối dân ca của đồng bằng Bắc Bộ và các sách nhạc tiếng Pháp. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì chuyển sang định cư ở Hoa Kỳ. Tại đây bà tiếp tục trình diễn và thâu âm cho đến khi bà nói lời giải nghệ vào năm 2002.
Năm 1946, Băng Thanh tản cư cùng gia đình vào Chợ Đại, Thanh Hóa vùng kháng chiến, nơi bà bắt đầu hát lúc 14 tuổi với nghệ danh Thái Thanh. Cũng năm này bà chị của bà là bà Thái Hằng kết hôn với nhạc sĩ Phạm Duy. Năm 1950 gia đình Phạm Duy dinh tê về Hà Nội rồi chuyển vào Sài Gòn, Thái Thanh theo vào Sài Gòn.
Năm 1956, Thái Thanh kết hôn với diễn viên điện ảnh Lê Quỳnh tại Sài Gòn. Năm 1965 bà ly dị Lê Quỳnh sau khi đã có chung với nhau 3 con gái và 2 con trai. Sau biến cố 1975, bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì sang Hoa Kỳ.
Từ đó, tôi – CTHĐ – thấy Thái Thanh không một lần trở lại Sài Gòn.
thanglong
Phạm Thị Băng Thanh bắt đầu sự nghiệp ca hát từ năm 13-14 tuổi..
Thời kỳ đầu, bà đi hát theo chị là ca sĩ Thái Hằng ở các chiến khu Việt Minh với các bài tân nhạc thời kỳ đầu, hay các bài dân ca mới của Phạm Duy. Đến năm 1951, bà chính thức lấy nghệ danh Thái Thanh cho giống người chị Thái Hằng.
Năm 1951, bà theo gia đình Phạm Duy vào Sài Gòn. Bà nổi tiếng trong thập niên 1950, được rất nhiều giới yêu thích từ giới trí thức cho tới bình dân. Bà được coi như một diva tầm cỡ nhất của Việt Nam thời đó. Tiếng hát của bà ngự trị trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh, truyền hình của Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai đoạn đầu thập niên 1970, bà cùng với ban hợp ca Thăng Long thường xuyên biểu diễn tại vũ trường ăn khách Đêm Màu Hồng.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Thái Thanh ở lại Việt Nam. Bà bị cấm hát suốt 10 năm, cho đến khi rời khỏi Việt Nam.
Năm 1985, Thái Thanh sang Hoa Kỳ định cư. Năm 2000 bà bị tai biến mạch máu não phải vào bệnh viện. Sau đó tuy hồi phục nhưng năm 2002, bà chính thức tuyên bố giải nghệ.
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn là tác giả của nhiều bài viết về Thái Thanh, phần lớn là những bài phát biểu cảm tưởng. Theo ông, trường hợp của Thái Thanh là một “trường hợp hãn hữu”, và “Máu lửa, chiến tranh, bom đạn, chia cắt, người sống, người chết, nước mắt, mồ hôi, thấm nhập vào âm nhạc của chúng ta như thế nào, đều được phản ánh qua tiếng hát Thái Thanh.” Giọng ca Thái Thanh là đề tài ca ngợi của giới văn nghệ sĩ tại miền Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau 1975. Nhạc sĩ Phạm Duy, người song hành với Thái Thanh trong phần lớn các ca khúc của mình, từng cho rằng không ai có thể thay thế được Thái Thanh trong sự diễn tả những sáng tác của ông.
Bên cạnh đó, nhiều nhà phê bình, văn nghệ sĩ cũng có những bài nhận định về Thái Thanh, những bài này thường mang tính ca ngợi, như Thái Thanh – tiếng hát trên trời của Thụy Khuê, Thái Thanh – tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi của Đỗ Việt Anh, Nụ tầm thanh của Hoàng Hải Thủy…Giọng hát Thái Thanh được nhà văn Mai Thảo tặng một biệt danh mà sau này thường được người ta nhắc đến, một cách trân trọng, bên nghệ danh của bà: Tiếng hát vượt thời gian.
o O o
Trích “Lời Tác Giả” Phóng Sự Tiểu Thuyết YÊU NHAU BẰNG MỒM:
CTHĐ: Năm 1970 tôi xuất bản quyển “Yêu Nhau Bằng Mồm.” Tôi tặng Thái Thanh quyển này.
Tôi viết “Yêu Nhau Bằng Mồm” để đăng báo tuần năm 1960. Ðến Tháng Bẩy năm 1970, mười năm sau ngày Kiều Ly – nhân vật chính trong Yêu Nhau Bằng Mồm – xuất hiện trên báo, tôi sửa lại bản thảo Yêu Nhau Bằng Mồm để đưa cho Nhà Chiêu Dương xuất bản.
Buổi sáng mùa thu, một mình tôi trong căn phòng nhỏ, bên bàn viêt của tôi là chiếc Akai xoay đều một băng nhạc do Phạm Mạnh Cương thực hiện. Tôi viết, tôi sửa bài, tôi lơ đãng nghe nhạc.
Ðến một phút nào đó tôi ngừng tay trên bản thảo vì tiếng hát của Thái Thanh. Nàng hát bài “Mùa Thu Trong Mắt Em” của Phạm Mạnh Cương. Tôi xúc động vì tiếng hát và tôi chợt nhớ từ lâu rồi, từ nhiều năm nay, tiếng hát Thái Thanh đã làm tôi nhiều lần xúc động; tôi yêu đời, yêu người nhiều hơn, đời tôi sung sướng hơn, đẹp hơn, một phần là nhờ sự ca tụng Tình Yêu của Tiếng Hát Thái Thanh.
TÌNH YÊU viết Hoa Bẩy Chữ, Hoa luôn Dấu Huyền, Dấu Mũ. Tôi nhớ một buổi sáng cách buổi sáng hôm nay, khi tôi viết những dòng chữ này, đã gần hai mươi năm. Ðó là một buổi sáng năm 1952. Buổi sáng đó tôi là một thanh niên vừa hai mươi tuổi, những bước chân tôi đang bỡ ngỡ bước vào đường đời; tôi vừa từ Hà Nội vào Sài Gòn, tôi đang đi tìm việc làm trong những toà báo ở Sài Gòn. Viết rõ hơn: năm 1952 tôi đã bỏ học, tôi chưa có việc làm để sống, tôi chưa biết tôi sẽ làm nghề gì, tôi chỉ biết tôi muốn làm báo, viết truyện. Với tôi năm ấy một chân phóng viên báo chí với số lương tháng hai ngàn đồng bạc là một cái gì thật là lý tưởng và quí báu nhất đời.
Buổi sáng ấy – một sáng Sài Gòn đầu mùa thu – tôi đứng trên con tầu điện từ Chợ Lớn chạy về Sài Gòn, tôi thấy Thái Thanh cùng đi trên con tầu điện ấy. Năm 1952, gần hai mươi năm trước đây, Thái Thanh và tôi cùng rất trẻ – Thái Thanh sinh năm 1934, kém tôi một năm – chúng tôi đang cùng bước vào con đường văn nghệ, nàng ca hát, tôi viết truyện, làm thơ. Năm ấy tôi chưa có chút danh tiếng nào, tôi còn chưa kiếm được tiền, dù chỉ là tiền đi xem xi nê, tiền mua mấy tở báo Cine Revue, Cinemonde được gửi đến Sài Gòn bằng tầu thủy – par bateau – Thái Thanh và Ban Thăng Long đã bắt đầu nổi tiếng. Và năm đó Sài Gòn còn có đường xe điện chạy từ Sài Gòn vào Chợ Lớn trên đường Galliéni, nay là đường Trần Hưng Ðạo.
Xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn năm xưa ấy chạy giữa đường. Khi xe ngừng ở trạm, khách xuống giữa đường nên đề đề phòng tai nạn, khoảng năm 1960 chính quyền Sài Gòn triệt bỏ đường xe điện này.
Và như thế là từ buổi sáng ấy cho đến sáng hôm nay, khi tôi ngồi sửa truyện và nghe Thái Thanh hát qua băng nhựa, thời gian đã hai mươi năm trôi qua đời tôi. Và đời Thái Thanh. Tôi thấy Nữ ca sĩ Thái Thanh, với tiếng hát không có dĩ vãng của nàng, đã làm cho đời tôi đẹp hơn, phong phú hơn là tôi với những truyện ngắn, truyện dài của tôi làm cho đời nàng thêm đẹp. Vậy để trả ơn nàng, tôi trang trọng đề tặng nàng tập truyện này. Bạn đọc thông minh chắc thừa hiểu nữ nhân vật Kiều Ly của phóng sự tiểu thuyết này không phải là hình ảnh của Thái Thanh; tôi chỉ cần nói thêm rằng những đoạn nào “tả chân” về Kiều Ly là tả Kiều Ly, còn những đoạn nào tả thơm, tả sạch về Kiều Ly thì Kiều Ly đó có phảng phất hình ảnh Thái Thanh.
o O o
Bài viết ở Sài Gòn ngày Một Tháng Chín 1970.. Thời gian vỗ cánh bay như quạ.. Thơ Ông Tchya Ðái Ðức Tuấn. Ðây là nguyên thơ bốn câu của ông tôi tìm được trong Hồi Ký “Nhớ Nơi Kỳ Ngộ” của ông Lãng Nhân:
Thì giờ vỗ cánh bay như quạ
Bay hết đường xuân kiếm chỗ ngồi
Rượu đến, gà kêu, cô cuốn chiếu
Quay về, còn lại mảnh tình tôi…
Tôi chỉ đổi tiếng “thì giờ” thành “thời gian..” Ðúng là thời gian vỗ cánh bay như quạ. Năm 1970 tôi trong căn gác nhỏ ở Ngã Ba Ông Tạ, Sài Gòn, nghe tiếng hát Thái Thanh, viết những giòng trên đây làm lời nói đầu tập phóng sự tiểu thuyết “Yêu Nhau Bằng Mồm” của tôi. Tôi đăng Yêu Nhau Bằng Mồm từng kỳ trên tuần báo Kịch Ảnh của Quốc Phong. Truyện viết xong được Nhà Xuất Bản Chiêu Dương ấn hành thành sách. Năm 1970 tôi nhớ hình ảnh của Thái Thanh trên chuyến xe điện Chợ Lớn-Sài Gòn hai mươi năm trước – năm 1952, năm ấy hai chúng tôi rất trẻ…
Năm ấy – năm 1952 – Thái Thanh hai mươi tuổi, tôi hai mươi tuổi.
Tôi tặng Thái Thanh tác phẩm Yêu Nhau Bằng Mồm.
o O o
Thế rồi… thời gian vỗ cánh bay như quạ.. năm nay, năm 2000, buổi sáng Tháng Mười, mùa thu về trên đồng đất Virginia của người Mỹ, tôi ở Rừng Phong, viết lại bài tôi đã viết năm 1970 – ba mươi năm trước – bài tôi viết về Thái Thanh, người nữ ca sĩ của vợ chồng tôi, tôi lại tưởng như tôi nhìn thấy tôi ba mươi năm trước ngồi viết về Tiếng Hát Thái Thanh trong căn gác nhỏ của vợ chồng tôi ở Ngã Ba Ông Tạ, Sài Gòn; năm 1970 ấy tôi mới bốn mươi tuổi.
Tính ra thời gian đã qua năm mươi năm kể từ buổi sáng tôi nhìn thấy Thái Thanh – Nàng hai mươi tuổi bận toàn y phục trắng, trên chuyến xe điện Chợ Lớn-Sài Gòn.
Nếu còn sống ở Sài Gòn tôi sẽ chẳng bao giờ được thấy lại, được đọc lại Yêu Nhau Bằng Mồm. Sau cuộc biến thiên 30 Tháng Tư 75 ở Sài Gòn tất cả những sách tiểu thuyết của chúng tôi đều bị tịch thu, cấm tàng trữ, tiêu hủy, chúng tôi mất hết tác phẩm. Ở Hoa Kỳ người Việt ta in lại nhiều sách truyện của những văn sĩ Sài Gòn, trong số sách được in lại ở Hoa Kỳ có quyển Yêu Nhau Bằng Mồm của tôi.
Bánh xe tị nạn khấp khểnh sang Hoa Kỳ tôi lại có quyển Yêu Nhau Bằng Mồm; nhờ vậy hôm nay tôi mới có điều kiện và cảm hứng để viết bài này. Alice và tôi có hai ca sĩ Thái Thanh và Anh Ngọc, với vợ chồng tôi Thái Thanh và Anh Ngọc là nhất. Có lần, cũng những năm 1970, tôi đã viết:
“Tôi quen mở máy nhạc khi ngồi viết, vừa viết vừa nghe nhạc. Nhưng khi tiếng hát Thái Thanh cất lên, tôi phải ngừng viết để nghe.”
Tôi vẫn nghĩ khi Thái Thanh hát mà tôi làm bất cứ việc gì là tôi có lỗi. 30 Tháng Tư 75 đến, số văn nghệ sĩ may mắn bỏ của chạy lấy người được lơ thơ như lá mùa thu, số văn nghệ sĩ kẹt giỏ ở lại đông vô số kể, những ngày tháng đen tối, u sầu, lo âu kéo dài như vô tận.
Một đêm cuối năm 1976 tôi gặp lại Thái Thanh. Ðêm ấy có Hoài Bắc, Lê Trọng Nguyễn. Vi-la số 203 đường Hiền Vương, gia chủ mời chúng tôi ăn bữa tối. Khoảng 11 giờ đêm Thái Thanh ngồi vào piano, nàng vừa đàn, vừa hát. Thấy tôi đến bên đàn, nàng mỉm cười nhìn tôi. Tôi hiểu nàng hỏi tôi:
“Muốn nghe bài gì?”
Tôi nói:
“Thôi thì thôi nhé…”
Nàng nhắc lại:
“Thôi thì thôi nhé..”
Và nàng hát cho tôi bài Ðộng Hoa Vàng, Thơ Phạm Thiên Thư, Nhạc Phạm Duy. Đứng bên nàng, tôi lặng người nghe nàng hát cho riêng tôi nghe.
Sau đó tôi làm bài thơ:
TIẾNG HÁT THANH Tiếng mẹ ru từ thưở nằm nôi,
Mẹ thôi Mẹ không hát nữa,
Khi Anh chân bước vào đời.
Tiếng hát Mẹ nằm trong ký ức
Tung cánh bay khi Em hát cho người!
Ngày xưa xa lắm ở bên trời
Có người xưa hát lúc đi rồi
Mười hôm tiếng hát còn vương vấn
Trên mái nhà xưa âm chửa rơi.
Tiếng hát Em tim Anh nức nở
Hai chục năm rồi Thanh chửa thôi!
Em hát khi Anh vừa bỏ học,
Em hát khi Anh sắp bỏ đời.
Em hát khi Anh hồng tuổi ngọc,
Em hát khi Anh giấc ngủ vùi,
Em hát khi Anh chưa biết khóc,
Em hát khi Anh biết mỉm cười.
Em hát tan vàng, ca nát đá.
Em hát cho Anh biết ngậm ngùi.
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi.
Ðêm tàn Em hát, buồn ơi lá sầu.
Ðộng Hoa Vàng có tên nhau,
Thương thì thương nhé, qua cầu gió bay.
Tiếng Em buồn cuối sông này,
Mây đầu sông thẫm bóng ngày khóc nhau.
o O o
Khoảng Tháng Hai, Tháng Ba năm 1984 người Sài Gòn báo cho nhau biết có người nghe được tiếng nói của đài phát thanh kháng chiến. Nghe nói những người ở Nha Trang đầu tiên vô tình mở radio bắt được đài này. Tháng Tư năm ấy tôi nghe được tiếng nói của Ðài Phát Thanh Hoàng Cơ Minh, đài phát thanh năm lần một ngày, mỗi lần lâu một giờ. Nhạc hiệu của đài là bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông, tiếp đó là Thái Thanh hát bài Quê Em:
“Quê Em miền trung du.
Ðồng quê lúa xanh rờn.
Giặc tràn lên cướp phá.
Anh về quê cũ.
Ði diệt thù giữ quê.
Giặc tan đón Em về..”
Ðêm khuya, khoảng 11 giờ, tiếng Thái Thanh hát Quê Em từ đâu xa lắm vọng về làm Alice và tôi ngây ngất. Nghe tiếng Thái Thanh từ radio phát ra tôi nghĩ:
“Thật lạ kỳ. Giả chân, chân giả. Ðây là tiếng hát Thái Thanh – không ai có thể nói đây không phải là tiếng Thái Thanh – nhưng cũng có thể nói không phải tiếng Thái Thanh vì lúc ấy Thái Thanh đâu có hát. Thái Thanh đang ở Sài Gòn. Nghe tiếng hát của mình từ góc trời nào vọng lại, không biết Thái Thanh có cảm nghĩ gì.”
Thế rồi sau khi đã phải sống đến năm năm trong ba bức tường, một hàng song sắt của nhà tù lớn Chí Hòa, tôi cô đơn, tôi sầu buồn nên tôi làm thơ. Thơ vẩn, thơ vơ thôi.
Năm 2000, thế hệ lão liệt chúng tôi đã và đang dắt nhau đi vào quên lãng. Thời gian tới biết có ai còn xúc động vì tiếng hát Thái Thanh, vì nhạc Phạm Duy, Hoài Bắc, Ðoàn Chuẩn?
Tôi viết bài này để hoài niệm nhau lúc chúng tôi sống; tôi viết nhớ người mà cũng là nhớ những ngày hoa niên, những ngày trung niên của đời tôi:
NỤ TẦM THANH Tóc mai sợi vắn, sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài tình nhân.
Tiếng Em trời đất vang ngân
Âm vàng, thanh ngọc bội phần xót sa.
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm thanh.
Nụ tầm thanh nở ra cánh biếc,
Em vượt biên rồi, Anh tiếc lắm thay.
Nhớ nhau gọi một chút này
Mất nhau ta tiếc những ngày có nhau.
Nửa hồn thương, nửa hồn đau,
Nửa hồn ta tím ngắt mầu thời gian.
Nghìn trùng xa cách quan san
Biết Em chớp biển, mưa ngàn ở đâu.
Hạc vàng bay mất từ lâu
Mà sao hoàng hạc trên lầu còn Thanh.
Lan huệ sầu ai.. Lan huệ sầu thành…
Quê Em tiếng hát em xanh đất trời.
Từ ly người đã xa người
Còn đây tiếng hát một đời xôn xao.
Ta đốt lên một cành hương dạ thảo
Em biết cho… Tình Ta vẫn nhớ Người.
Thăng Long từ độ Thanh hồng hảo.
Tình khúc, thương ca động đất trời.
Tà áo xanh ngời hương mộng ảo,
Hồ điệp, Trang Châu hát giữa đời.
Người đi mùa ấy thu giông bão,
Tà áo Văn Quân mấy khóc cười.
Mái nhà xưa nhớ trăng huyền thảo,
Viễn xứ thuyền đi, biển nhớ người
Người đi vắng một trời châu bảo,
Vượn hú, chim kêu, nước ngậm ngùi.
Lâu đài tình ái sương dăng ảo
Ðồi tím hoa sim gió ạ…ời…
À… ơi.. ơi.. à …ơi…
Ngày ấy có Thanh, Thanh nhẹ vào đời
Và Thanh ca đến với lời thơ nuối.
Ngày ấy có Tôi mê mải tìm lời..
Và Thanh… Thanh..suốt một đời… Tình ơi..!
Nhớ người mười tám, đôi mươi,
Cỏ hồng, chiều tím, xanh trời, Người đi.
Chúng mình ngày đó xuân thì,
Tiếc không khăn gấm, quạt quỳ trao tay.
Gìn vàng, giữ ngọc cho hay,
Lửa hương ta hẹn kiếp này, kiếp sau.
Áo bay thương lúc qua cầu
Trăng vàng, mây bạc mái đầu thướt tha.
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm thanh.
Nụ tầm thanh nở ra cánh biếc,
Em vượt biên rồi, Anh tiếc lắm thay.
Của tin gọi một chút này:
Tóc mai sợi trắng, sợi phai
Lấy nhau đặng cũng thương hoài ngàn năm!
Thơ làm tai Phòng Giam 20 FG Nhà Tù Chí Hòa Tháng 10, 1988, khi nghe tin Thái Thanh đã sang Mỹ.
o O o
Rừng Phong. Ngày 16 Tháng Tư, 2015.
Tôi viết bài này để ghi dấu : Thái Thanh bị Bệnh Già – Quên – đã bốn năm. Đã hơn 1000 ngày đêm Nàng sống trong một Nursing Home ở Cali. Nghe nói nay Nàng không nhớ, không biết – Nàng đã quên – những người thân quen của Nàng.
Tôi mong trong vài sát-na, Thái Thanh đọc và hiểu những giòng chữ này tôi viết về Nàng.
Trên Wepekeida, trong bài viết về Thái Thanh, người viết kể câu thơ của tôi là:
“Em hát cho tan vàng, nát đá
Em hát cho Anh biết ngậm ngùi..”
Câu Thơ Thái Thanh của tôi là:
“Em hát tan vàng, ca nát đá
Em hát cho Anh biết ngậm ngùi…”
Hoàng Hải THủy
Thái Thanh, tiếng hát lên trời Trong những phút giây thiếu vắng trống trải nhất hay những nhớ nhung tha thiết nhất của cuộc đời, mọi hiện diện hữu hình đều vô nghĩa; ta chờ đợi một đổi trao, khát khao một giao cảm thì bỗng đâu, một hiện diện vô hình lóe lên tựa nguồn sáng, tựa tri âm: sự hiện diện của tiếng hát.
Nếu thơ là một ngôn ngữ riêng trong ngôn ngữ chung, theo Valéry, hay thi ca là tiếng nói của nội tâm không giống một thứ tiếng nói nào của con người, theo Croce, thì âm nhạc hẳn là tiếng nói của những trạng thái tâm hồn và nhạc công hay ca sĩ là nguồn chuyển tiếp, truyền đạt những rung động từ hồn nhạc sĩ đến tâm người nghe.
Thị giác giúp chúng ta đọc một bài văn, nghiền ngẫm một bài thơ, nhưng chẳng mấy ai có thể thưởng thức một bản nhạc bằng thị quan của riêng mình mà phải nhờ đến người trình diễn, đến ca công, ca kỹ. Ngàn xưa nếu người kỹ nữ bến Tầm Dương chẳng gieo “tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây” chắc gì ngàn sau còn lưu dấu vết Tỳ Bà Hành?
Sự biểu đạt tác phẩm nghệ thuật hay sự truyền thông cảm xúc từ nhạc bản đến thính giả, nơi một vài nghệ sĩ kỳ tài, không chỉ ngưng ở mực độ trình diễn mà còn đi xa hơn nữa, cao hơn nữa, tới một tầm mức nào đó, ca nhân đã sáng tạo, đã đi vào lãnh vực nghệ thuật: nghệ thuật vô hình của sự truyền cảm, nghệ thuật huyền diệu sai khiến con người tìm nhau trong bom lửa, tìm nhau trong mưa bão, nghệ thuật dị kỳ tái tạo bối cảnh quê hương đã nghìn trùng xa cách, nghệ thuật mời gọi những tâm hồn đơn lạc xích lại gần nhau dìu nhau đưa nhau vào ngàn thu, nghệ thuật không tưởng đừng cho không gian đụng thời gian khi ca nương cất tiếng hát, tiếng hát của bầu trời, giao hưởng niềm đau và hạnh phúc: Thái Thanh.
*
Người ta nói nhiều đến sự nhạy cảm của phụ nữ, đến một thứ giác quan nào đó ngoại tầm nam giới. Những người đàn bà phi thường như Callas, Piaf, Thái Thanh,… đã tận dụng đến cùng cảm quan bén nhạy của mình để sai khiến, xao động, chuyển hóa ngôn ngữ, âm thanh của bài hát thành nội cảm cầm ca, cấu tạo nên một vũ trụ thứ hai, đắm đuối, cuồng say, trong lòng người:
Trời trong em, đồi choáng váng
Rồi run lên cùng gió bốn miền
Tiếng hát Thái Thanh đến với chúng ta bằng rung động trực giác rồi tan loãng trong suy tư, xoáy vào những hố sâu, những đỉnh cao, vào tiềm lực của sự sống. Trong nghệ thuật hội họa, Van Gogh dùng sắc độ chói rạng để diễn tả những cuồng nhiệt, những trận bão trong tâm hồn. Trong nghệ thuật trình diễn, Thái Thanh vận dụng tiết tấu âm thanh, tạo nên sức cuốn hút mãnh liệt giữa con người, tình yêu và vũ trụ:
Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
Tìm trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng Dương ơi! Có xót xa cũng hoài mà thôi!
*
Vẽ lên hình ảnh người nữ ca sĩ dưới ánh đèn sân khấu, Hoàng Trúc Ly đã có câu thơ thật hay:
Vì em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc, tay mời âm thanh
Câu này, trái với vài truyền thuyết, không nhắm vào một danh ca nào nhất định, chỉ gợi lên không khí các phòng trà ca nhạc Sàigòn khoảng 1960. Nhưng tiếng hát lên trời là một hình ảnh có lẽ hợp với giọng ca Thái Thanh nhất, giữa những tiếng hát thời qua và thời nay. Thái Thanh là một danh hiệu, nhưng như có ý nghĩa tiền định: bầu-trời-xanh-tiếng-hát. Hay tiếng hát xanh thắm màu trời. Tiếng hát long lanh đáy nước trong thơ Nguyễn Du, lơ lửng trời xanh ngắt trong vòm thu Yên Ðổ, tiếng hát sâu chót vót dưới đáy Tràng Giang Huy Cận, hay đẫm sương trăng, ngừng lưng trời trong không gian Xuân Diệu, tiếng hát cao như thông vút, buồn như liễu đến từ cõi thiên thai nào đó trong mộng tưởng Thế Lữ.
*
Ngày nay, những khi tìm lại giọng ca huyền ảo của Thái Thanh trong tiện nghi, ấm cúng, ít ai còn nhớ đến định mệnh gian truân của một tiếng hát, những bước gập ghềnh khúc khuỷu, chênh vênh, trôi nổi, theo vận nước lênh đênh. Tiếng nhạc Phạm Duy gắn bó với tiếng hát Thái Thanh thành tiếng của định mệnh, chứng nhân của nửa thế kỷ tang thương, chia lìa trên đất nước. Tiếng Thái Thanh là tiếng nước tôi, là tiếng nước ta, là tiếng chúng ta, là tiếng tình yêu, là tiếng hy vọng, là tiếng chia ly, oan khổ…
Tiếng hát Thái Thanh vang vọng những đớn đau riêng của phận đàn bà, mà người xưa đã nhiều lần nhắc đến bằng những công thức: hồng nhan đa truân, tài mệnh tương đố, tạo vật đố hồng nhan. Giọng hát Thái Thanh dịu dàng đằm thắm nhưng vẫn có chất gì đắm đuối và khốc liệt. Thái Thanh tình tự những khát vọng và những đau thương của hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, những thế hệ đàn bà bị dập vùi trong cuộc chiến kéo dài hằng nửa thế kỷ, kèm theo những giằng co tranh chấp, những băng hoại của một xã hội bất an. Nạn nhân âm thầm, vô danh là những người tình, những người vợ, những người mẹ đã có dịp nức nở với tiếng hát Thái Thanh: từ o nghèo thở dài một đêm thanh vắng đến nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, đến lúc anh trở về bại tướng cụt chân, đến nhiều, rất nhiều bà mẹ Việt Nam, từ Cai Kinh ngang tàng đến Gio Linh Ðồng Tháp suốt đời cuốc đất trồng khoai… Tiếng hát Thái Thanh là tiếng vọng khuya khoắt của những cơn bão lịch sử.
Và Thái Thanh đã sống lăn lóc giữa cơn lốc đó. Từ tuổi mười lăm, mười bảy, cô Băng Thanh -tên thật Thái Thanh- đã mang ba-lô theo kháng chiến chống Pháp: Hà Nội, khu III, khu IV, chợ Sim, chợ Ðại, chợ Neo, Trung Ðoàn 9. Về thành, cô đã góp công, tích cực và hiệu lực vào việc củng cố, phát triển nền tân nhạc phôi thai với ban hợp ca Thăng Long, sau đó là kiếp ca nhi phòng trà những nơi gọi là “Sài Thành hoa lệ”, những đêm màu hồng, chiều màu tím.
Trong mười năm sa mạc, Bầu trời xanh không hát, chim gìn giữ tiếng, tiếng chim Thanh như lời Phạm Duy trong một tổ khúc. Sang Hoa Kỳ, Thái Thanh hát lại, vẫn đắm say, vừa kiêu sa vừa gần gũi, đam mê và điêu luyện.
*
Thái Thanh tạo cho mỗi tác phẩm một sinh mệnh mới: Bài hát được “Thái Thanh hóa”, như đã đạt được “đỉnh cao” của cuộc đời, từ đó khó tìm thấy ai đưa nó vượt lên cao hơn nữa. Bởi Thái Thanh, ngoài giọng hát điêu luyện phong phú mở rộng trên nhiều cung bậc, còn có nghệ thuật làm nổi bật lời ca trong nhạc khúc và tạo ra một khí hậu, một tâm cảnh chung quanh bài hát. Nghe Thái Thanh hát là thưởng thức một khúc nhạc, một bài thơ, trong một thế giới nghệ thuật trọn vẹn. Giọng hát xoắn sâu, xoáy mạnh vào tâm tư người nghe, khi lâng lâng, khi tẻ buốt, sai khiến tâm tư vươn lên, hay lắng xuống. Giọng hát Thái Thanh tha thướt và tha thiết buộc người nghe phải sống cao hơn, sâu hơn, sống nhiều hơn. Tiếng hát Thái Thanh có lúc gợi cảm, khơi tình, hổn hển như lời của nước mây như lời thơ Hàn Mặc Tử.
Khi tiếng hát cất lên, dường như mọi hữu thể làm bằng sỏi đá, sắt thép, thân xác và nước mắt phút chốc tan biến, trở nên vô hình, vô thể, hóa thân trong tiếng hát, khi trầm mặc, khi vút cao; Thái Thanh, phù thủy của âm thanh là một thứ Ðào Nương trong truyền thuyết có ma lực hú về những âm tình u khuất.
*
Trong những cassette giới thiệu nhạc của mình, Phạm Duy một đôi lần có lưu ý Thái Thanh thỉnh thoảng hát sai. Dĩ nhiên một tác giả có quyền đòi hỏi người khác phải trung thành với văn bản của mình; riêng trong nghề ca xướng, nghệ nhân vẫn có thông lệ đổi vài chữ cho hợp với hoàn cảnh, nhất là ở Việt Nam, nền văn nghệ trình diễn vốn dựa trên truyền thống truyền khẩu lâu đời.
Ví dụ như bài Cho Nhau, Phạm Duy viết:
Cho nhau ngòi bút cùn trơ…
Cho nhau, cho những câu thơ tàn mùa
Cho nốt đêm mơ về già
Thái Thanh hát:
Cho nhau ngòi bút còn lưa
…
Cho nối đêm mơ về già
Lưa là một chữ cổ, có nghĩa là còn sót lại, nhưng mang một âm thanh u hoài, luyến lưu, tiếc nuối. Ca dao Bình Trị Thiên có câu:
Trăm năm dù lỗi hẹn hò
Cây đa bến Cộ con đò vắng đưa
Cây đa bến Cộ còn lưa
Con đò đã thác năm xưa tê rồi.
Chính Phạm Duy cũng có lần sử dụng chữ lưa trong bài Mộng Du: Ta theo đường mộng còn lưa… Dĩ nhiên ngòi bút cùn trơ chính xác hơn, nhưng không thi vị bằng ngòi bút còn lưa.
Cho nốt đêm mơ về già, như Phạm Duy đã viết, là cho phứt đi, cho đi cho xong. Thái Thanh thay chữ nốt bằng chữ nối, tình tứ và thủy chung hơn: những giấc mơ về già chỉ là tiếp nối những giấc mơ tuổi xuân mà anh không tặng được em vì gặp em quá muộn; cho nhau chỉ còn trái đắng cuối mùa, nhựa sống trong thân cây chỉ còn dâng được cho em dư vị chua chát và cay đắng.
Phạm Duy viết:
Cho nhau thù oán hờn ghen…
Cho nhau cho cõi âm ty một miền
Thái Thanh hát:
Cho nhau cho nỗi âm ty một miền
Chữ nỗi vô tình buông ra mà hay hơn chữ cõi, vì cõi chỉ là một miền, một không gian, một ý niệm hiện hữu, có vẻ bao la nhưng thực ra hữu hạn. Chữ nỗi vô hình, nhỏ bé nhưng vô hạn, đi sâu vào tâm linh con người: với tuổi già nỗi chết nằm trong cuộc sống. Cho em nỗi chết là cho tất cả những niềm hoang mang, khắc khoải, đau thương còn lại, nghĩa là chút tình yêu còn lưa trong từng nhịp đập yếu ớt của trái tim đã cạn dần cạn mòn hết những mùa xuân.
*
Nói như thế, không có nghĩa là khuyến khích ca nhân đổi lời tác giả. Chính Thái Thanh nhiều khi hát sai, ví dụ như trong Về Miền Trung: Tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi mà đổi ra thành Thương thân thiếu phụ, khóc đầu hài nhi là hỏng, nhưng người nghe dễ nhận ra và điều chỉnh. Nhiều chỗ sai, người nghe không để ý.
Ví dụ câu này có thể xem như là một trong những câu hay nhất của Phạm Duy và tân nhạc Việt Nam:
Về miền Trung còn chờ mong núi về đồng xanh
Một chiều nao đốt lửa rực đô thành
Thái Thanh hát một chiều mai đốt lửa… là đánh vỡ một viên ngọc quý. Chữ nao mơ hồ, phiếm định, chỉ là giấc mơ ánh sáng, màu sắc của nghệ sĩ -mà Nguyễn Tuân gọi là cơn hỏa mộng- nó chỉ là hình ảnh nghệ thuật, chứ Phạm Duy mong chi ngày đốt kinh thành Huế? Có lẽ ông còn giữ trong ký ức câu thơ của Chính Hữu(1) trong Ngày Về mà ông rất thích:
Bỏ kinh thành rừng rực cháy sau lưng
*
Thơ không thể dịch được, nghĩa là không thể chuyển thơ từ ngôn ngữ nước này sang ngôn ngữ nước khác mà không làm mất hồn thơ, làm mất chất thơ, nhưng có thể chuyển thơ sang hình thức nghệ thuật khác như chuyển thơ sang nhạc hay phổ nhạc những bài thơ hoặc ngược lại, đặt lời thơ cho bản nhạc.
Chúng ta có nhiều nghệ sĩ sáng tác những nhạc khúc tuyệt vời với ngôn ngữ thi ca, nhưng chúng ta có ít ca sĩ thấm được hồn thơ trong nhạc bản. Ðạt tới tuyệt đỉnh trong ngành trình diễn, Thái Thanh nắm vững cả bốn vùng nghệ thuật: nghệ thuật truyền cảm, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật thi ca và nghệ thuật phát âm tiếng Việt, giữ địa vị độc tôn trong tân nhạc Việt Nam gần nửa thế kỷ: Thái Thanh chẳng cần làm thơ cũng đã là thi sĩ.
Giữa những phôi pha của cuộc đời, tàn phai của năm tháng, giọng hát Thái Thanh vang vọng trong bầu trời thơ diễm tuyệt, ở đó đau thương và hạnh phúc quyện lẫn với nhau, người ta cho nhau cả bốn trùng dương và mặc tàn phai, mặc tháng năm, tiếng hát vẫn bay bổng ở chốn trần gian hoặc ở vô hình.
Thụy Khuê
Chú thích:
Những lời ca trích trong bài này của nhạc sĩ Phạm Duy.
(1) nói đến tâm trạng chiến sĩ Trung Ðoàn Thủ Ðô khi rời Hà Nội đầu năm 1947.
Nữ danh ca Thái Thanh: Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi Một bữa, nhận được tin Thanh Tâm Tuyền được tha, qua Doãn quốc Sỹ, chúng tôi rủ nhau tới thăm, có cả Thái Thanh. Sáng sớm, tôi và Sỹ đã có mặt tại nhà Thái Thanh ở gần chợ Thái Bình. Sau khi trèo chiếc cầu thang cao dốc ngược, tôi thấy Thái Thanh đang chải đầu. Xung quanh nhà toàn chậu hoa, tôi biết Thái Thanh mê cây cảnh. Sợ mất xe đạp, tôi và Sỹ xuống thang, chờ Thái Thanh ở dưới chân cầu thang. Chừng 15 phút sau, Thái Thanh khoan thai, tay xách cây dù nhỏ đi xuống. Tôi và Sỹ đều gếch chân lên bàn đạp sẵn sàng. Doãn quốc Sỹ mời Thái Thanh ngồi vào chiếc pọoc-ba-ga để anh đèo, nhưng Thái Thanh nói:
– Em nặng quá, anh đèo gì nổi, từ đây lên anh Tuyền bên Gia Định xa lắm!
Nói xong, Thái Thanh đi ra phía lộ, kêu xích lô. Sau khi ngã giá, Thái Thanh bước lên xích lô ngồi, trông vẫn đúng điệu lắm. Tôi và Doãn quốc Sỹ như hai vệ sĩ già, đạp xe lẽo đẽo theo sau. Khi xe leo khỏi con dốc Cầu Kiệu, tôi mệt muốn đứt hơi, rồi qua Lăng Tả Quân, gặp Tòa Tỉnh Trưởng Gia-Định cũ, chúng tôi quẹo trái, rồi quẹo mặt, qua Trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn một đoạn khá dài, chúng tôi nhìn thấy Thanh Tâm Tuyền đứng chờ ở ven đường. Doãn quốc Sỹ đã hẹn trước với Thanh Tâm Tuyền rồi. Lúc ấy đã gần 9 giờ sáng. Thấy đói, tôi mời tất cả vào một quán cóc bên lề đường ăn sáng, uống cà phê. Ăn uống xong, Tuyền đưa chúng tôi vào nhà bằng lối đi ngoằn ngoèo, nhỏ hẹp đến căn nhà trệt xinh xắn có hàng ba sơn màu xanh, có cả giàn hoa giấy màu tím hồng trông rất nên thơ. Vào đến trong nhà, ngoài chiếc bàn nhỏ, trên mặt để sẵn đĩa bánh bích quy loại bình dân và ấm nước trà. Cách đấy một khoảng có mắc chiếc võng. Ở cuối nhà, kê chiếc phản gỗ. Chị Tuyền, người miền Nam, trông hãy còn duyên dáng lắm ra chào, rồi xin phép phải đi có chút việc. Thế là chỉ có chúng tôi, nói chuyện tù mãi cũng chán, Thái Thanh lấy cây đàn guitare treo trên vách xuống , so lại dây rồi hát những ca khúc của Phạm Duy, Cung Tiến. Thoạt đầu tiếng hát còn nhỏ, sau như không trấn áp nổi sự hào hứng, Thái Thanh hát thật mạnh, thật to. Tiếng hát âm vang rồi thoát qua khung cửa sổ, qua chiếc cửa ra vào không khép, nên chỉ thoáng sau, một rừng người lố nhố che kín cả khoảng rộng để nghe tiếng hát Thái Thanh. Chúng tôi vui chơi đến trưa mới ra về. Thanh Tâm Tuyền lại đưa tiễn ra tận lề đường. Chờ cho Thái Thanh kiếm được xích-lô, lúc ấy tôi và Doãn quốc Sỹ mới đạp xe theo. Lần về, khi đến Đakao, tôi quẹo qua ngả khác đến thăm một người bạn, chì còn Doãn quốc Sỹ đưa Thái Thanh về nhà.
Tạ Tỵ
Theo Thời Báo
Danh Ca Thái Thanh - Phim Tài Liệu VIDEO Thái Thanh - Những Tình Khúc Hay Nhất Thập Niên 90 Của Tiếng Hát Vượt Thời Gian Thái Thanh VIDEO