III/ KHỔ DO MÊ, BỎ QUÊN CHÍNH MÌNH.
Quan Hạ Ỷ Công đến yết kiến Thiền sư Tổ Tâm Hối Đường, hai bên cùng đàm luận, tinh thần rất khoáng đạt, có chỗ thông cảm. Khi bàn Triệu Luận của ngài Tăng Triệu, đến câu “Hội muôn vật làm chính mình, tình cùng vô tình chung một thể”, Ngài Tổ Tâm Hối Đường lấy cây thước gõ trên bàn cái “Cốc”, rồi Ngài dùng thước đánh con chó khiến nó chạy đi và nói: “Con chó là loài có tình cho nên bị đánh thì nó đi. Còn cái bàn là loài vô tình nên đánh thì nó còn nằm đây chứ không đi. Như vậy tình với vô tình đâu có cùng một thể?” Quan Hạ Ỷ Công mờ mịt không đáp được.
Quý vị thấy không? “Hội muôn vật làm chính mình, tình cùng vô tình chung một thể” nghĩa là sao? Tâm chơn thì mọi cảnh đều như, mỗi pháp, mỗi pháp đang ở bản vị của nó. Tự mình không động mà sáng biết rõ ràng, các pháp không ngoài một thể tịnh mà sáng, tức là đang biết rõ ràng đây thì cái bàn có nằm đó, con chó có chạy đi, đất trời có xoay chuyển cũng đâu có ra ngoài sự sáng biết kia, đâu có gì ngăn ngại? Nhưng khi Ngài Hối Đường lấy cây thước gõ cái bàn một cái, gõ con chó một cái và nói như trên mà Quan Hạ Ỷ Công mờ mịt thì có phải là vị quan này đã thấy theo cái bàn, biết theo con chó, bị các cảnh sắc che mắt nên mờ mịt không? Nhìn theo, biết về cảnh sắc bên ngoài thì sẽ thấy có cái bàn khác và con chó khác. Khi thấy cái bàn vô tình nằm một chỗ, còn con chó hữu tình chạy đi, thấy hai cái khác, đó là thấy biết theo cảnh, trên cảnh mà thấy, hay là chính mình đang tự thấy biết? Đó, bất giác, lao ra theo vật và phải chịu mọi khổ đau là ngay chỗ đó. Nếu không thấy được cái gút này thì dù có đang chú tâm nghe mà bỏ quên chính mình, lao theo tiếng thì cũng là đang bị âm thanh này gạt.
Mới thấy, khi đang nói, đang biết rõ ràng thì không thêm một niệm. Nhưng khi thấy cái bàn và con chó thì liền lao ra, dính kẹt trên cái bàn và con chó cho nên thấy cái bàn khác, con chó khác. Mà thấy khác là nhằm trên cảnh mà thấy, trên vật mà thấy cho nên kẹt trên tướng sanh diệt mà bỏ mất mình và mờ mịt. Sanh tử hay niết bàn, khổ đau hay an lạc, cái gút nằm ngay chỗ đó. Chúng ta cần phải nhìn cho rõ, nếu không thì mình nói là tỉnh, nhưng vẫn cứ bị nó gạt hoài mà không hay. Từ trước tới nay, tất cả chúng ta khổ là vì một cái bất giác, một cái lao ra, một cái mê mờ này. Mà mê mờ là tại thoáng một niệm, chỉ chút xíu đó thôi chứ không phải là nhiều. Nhưng để lại hậu quả khổ đau thì không nhỏ.
Khi đang ở bản vị thì an ổn, yên lành. Nhưng khi lao ra, có phân biệt mà không biết dừng thì sẽ có đẹp, có xấu. Rồi đẹp thì ưa, xấu thì chán. Mà ưa thì hài lòng, chán thì không thích. Rồi cái mình ưa thích mà không được cũng khổ, mà có được rồi lo giữ gìn sợ mất đi cũng khổ, cái mình không thích mà nó cứ hiện chần vần trước mặt hoài cũng khiến mình bực bội, không yên… cứ thế trôi lăn, trôi lăn mãi trong vòng luân hồi sanh tử chịu khổ dài dài. Bây giờ biết rồi thì sao? Trong mọi lúc mọi nơi, chúng ta luôn tỉnh, chăn ngay một cái lao ra đó thì không gì có thể làm cho mình khổ được. Đó là chúng ta đã tìm ra cái gút cột mình để giải thoát cho mình rồi.
Quý vị thấy ở thế gian này có rất nhiều chuyện đột biến, bất thần xảy đến khiến con người không tỉnh kịp, cho nên bị chới với, hụt hẫng, có khi khổ quá phải tìm đến cái chết. Có một anh nông dân nọ đang sống trong cảnh bình yên. Buổi sáng lên nương làm rẫy, chiều về đồng ruộng làm lúa, tỉa đậu trồng ngô. Cơm ngày ba bữa, cuộc sống ổn định, nhẹ nhàng không vướng bận gì. Tình cờ một hôm bị mấy đứa bán vé số nài nỉ nên anh đã miễn cưỡng mua một vài tấm. Không ngờ tấm vé trúng số độc đắc được 5 tỷ. Anh bắt đầu suy nghĩ phải làm gì với số tiền nhiều như thế này đây: xây nhà, mua xe, đầu tư làm ăn… Không bao lâu, anh nông dân bỗng chốc biến thành một đại gia trong vùng. Có nhà lầu, xe hơi, kẻ hầu người hạ, đồ ăn thức uống toàn những thứ thượng hạng. Tưởng chừng cuộc sống êm đềm như vậy mãi. Bất thần một hôm, không biết vì một lý do nào đó mà anh ta bị sạt nghiệp, hết sạch tài sản, trở lại cuộc sống đạm bạc như thuở ban đầu. Nhưng lúc này, quý vị nghĩ anh có dễ chấp nhận cuộc sống ban đầu không, hay là không chịu nổi? Có khi chết được chứ không phải thường!
Nhìn lại cuộc sống này, những hiện tượng xảy ra khiến cho con người ta lâm vào những cảnh tương tự như vậy không phải là ít. Xét lại, ngày xưa lúc còn là một nông dân bình thường, một mái nhà vừa phải, cơm ngày ba bữa, cuộc sống thanh nhàn, đâu phải nghĩ thêm gì, đời sống không thấy có gì là khổ, có khi còn được bình an nữa. Khi có tiền phải nghĩ thêm bao nhiêu thứ phụ khác. Sau một thời gian khá giả rồi trở lại cuộc sống bình thường như ban đầu, chưa giàu sang như ngày nào thôi chứ không đến nỗi quá khổ hơn trước đó. Nhưng điều khó hiểu của con người mình là gì? Ngày xưa khi chưa giàu sang thì mình có thể sống một cách đạm bạc, thanh thoát, bình thường như ai, không có gì khổ cả. Nhưng sau một thời gian sống sang cả rồi trở lại cuộc sống như ban đầu thì tại sao lại không chịu nổi? Có phải là chúng ta bị cái khoảng thời gian giàu sang nhất thời đó nó gạt mình hay không? Nhưng nó gạt mình từ hồi nào? Mình đâu có thấy nó gạt mình hồi nào đâu? Có phải trong thời gian đó, chúng ta lỡ quen với cuộc sống giàu sang để bây giờ nghèo lại thì mình không chịu nổi? Nhưng lỡ quen từ đâu quý vị biết không? Là vì trong thời gian đó, mình đã bất giác lao ra, đắm nhiễm vào cuộc sống đó mà không giác biết kịp, không chịu lùi lại. Đợi cho mọi chuyện lỡ hết, khổ rồi mới biết thì những cái dính mắc nó dồn từ ngày xưa đến giờ thành cả đống lớn dầy quá rồi, làm sao mà gỡ cho kịp nữa! Khi đó chao ôi là khổ, đòi chết là phải thôi.
Nhìn lại mới thấy đáng thương cho mình. Ngay khi sống trong cảnh sung sướng mà sanh tâm hưởng thụ, không biết các pháp đều là duyên của trần bên ngoài, nếu mình không bỏ nó thì có lúc nó cũng bỏ mình mà đi thôi. Sống trong một cái giả dối như vậy mà con người cứ ngỡ là thật nên đã tin tưởng và ký kết hợp đồng với nó một cách bền chặt lâu dài. Cái không chắc thật mà mình cứ tưởng nó bền chắc, lâu dài cho nên khi nó bỏ mình đi ngang không thèm từ giã thì chúng ta sẽ khổ. Cho tới lúc này mới thấy rằng trong khoảng thời gian kia, mình đã lỡ đánh mất mình. Nếu trong khoảng thời gian giàu sang đó mà vẫn sống bình thường, có nghĩa là vật chất tuy nhiều nhưng tâm hồn vẫn chất phác, bình dị, bình thường thì khi bị sụp xuống, quý vị có khổ không? Đủ duyên thì sống khá hơn một chút, đầy đủ phương tiện hơn một chút, còn hết duyên thì trả lại con số không ban đầu, số không thì đâu có gì để được và cũng đâu có gì để mất! Ngày mới chào đời mình cũng chỉ là tay không thôi mà! Vì quên con số không đó nên mới bị khổ không ít.
Để thấy, ngay trên cảnh mà giác biết kịp thì không mất mình, mà không mất mình thì không bị thất thế, không bị hụt hẫng, cho nên không có gì có thể làm cho chúng ta khổ được cả. Khổ là do mình lao ra cho nên mới khổ. Nhưng khi mới lao ra thì quý vị thấy nhỏ hay là lớn? Chỉ là một niệm lao ra nhỏ xíu thôi, nhiều lúc mình còn khinh thường niệm đó nữa, quên một chút đi ra đâu có gì là lớn đâu. Ví dụ như cái ly này, thấy nó đẹp thì mình cứ thấy nó là đẹp, ai nói tâm lao ra là khổ mà mình có thấy khổ gì đâu, nghĩ có chút xíu thôi mà. Nhưng tới khi đau khổ tận cùng rồi, gẫm lại mới thấy cái nguy hại của chút xíu tâm lao ra này là lớn. Chừng nào quý vị thấm thía được cái nguy hại đó thì sức tỉnh giác mới cao, còn mình xem thường thì nó vẫn cứ gạt mình.
Nhưng xét lại, con người trên thế gian có dễ biết như vậy để dừng hay không? Rất là khó phải không? Cho nên gặp cảnh là cứ lao ra. Nói chi đến khoảng giàu sang mấy chục năm, chỉ cần một giấc ngủ thôi, nằm mơ thấy trúng vé số, cất nhà lầu, xe hơi…, tỉnh dậy không thấy có gì thì hụt hẫng, buồn rười rượi. Tỉnh dậy rồi, biết mọi thứ chỉ là nằm mơ mà cũng buồn được, mới thấy cái bất giác lao ra dính mắc này nhiều đời lắm rồi, nó ăn sâu rồi chứ không phải chuyện thường nữa. Sống chỉ biết lao ra thôi, chính vì lao ra nên mình mới bị các cảnh bên ngoài gạt rồi khổ, còn không lao ra thì đâu có cái nào gạt được mình. Qua đó chúng ta mới thấy được cái mâu thuẫn của con người. Lòng thì sợ khổ, nhưng sống thì lại theo hành động gây ra đau khổ mà không hề biết tránh, cứ lao ra bên ngoài mà không hề biết quay lại, cho nên trôi lăn và chịu khổ triền miên.
Chuyện giàu sang ở trên là một điển hình dễ thấy, còn trong cuộc sống của mỗi chúng ta có rất nhiều chuyện, nào là danh vọng, địa vị, của cải, quyền uy, … cũng đưa đẩy con người lên xuống một cách đột nhiên như vậy không ít. Quý vị thử nghiệm lại nơi chính mình sẽ thấy, đang khi trong cảnh đó, nếu quên mất mình mà lao ra trên những cái đó thì đến khi nó biến đổi, chúng ta sẽ phải bị khổ thôi. Đó là một sự thật.
Có một chú nọ đến nhà thăm anh mình, thằng cháu thình lình chạy vô hỏi chú:
- Khi đồng hồ của chú bị hư thì chú coi giờ ở đâu? Chú làm sao biết giờ?
Ông chú không trả lời liền mà hỏi lại:
- Vậy theo cháu thì làm sao để biết giờ?
- Dễ. Đồng hồ hư thì sử dụng máy vi tính, điện thoại cầm tay …
Ông chú nghe xong ngậm ngùi: “Nếu những cái này mất đi thì cháu sẽ thế nào?” Người cháu vẫn chưa biết nên giục:
- Chú trả lời cho cháu nghe chú lấy gì để xem giờ?
Ông chú trả lời:
- Buổi sáng nghe gà gáy lần thứ ba thì biết là năm giờ và thức dậy nấu cơm. Mặt trời đổ bóng hiên nhà thì biết đi nấu cơm trưa là vừa…
Người cháu nghe xong vẫn ngơ ngác, chưa hiểu coi giờ theo cách cổ điển này là gì.
Chuyện nghe ra có vẻ bình thường, nhưng nếu xét kỹ thì không phải bình thường chút nào. Nhìn lớp trẻ hiện tại sẽ thấy, họ bị lệ thuộc quá nhiều vào những thứ như điện thoại cầm tay, máy vi tính... Nếu những thứ này không còn thì cuộc sống của họ sẽ bị đảo lộn, không còn ổn định nữa. Nhưng đối với người chú thì lúc nào còn mặt trời, còn cây, còn nhà thì biết được là mấy giờ. Sẵn có cái gì thì xài cái đó nên không bị hụt hẫng. Có những người bằng cấp lên tới kỹ sư, tiến sĩ, nhưng có dễ biết bằng lòng với những gì hiện có, chịu nổi với những gì mình đang có, không ham muốn những gì quá tầm tay của mình để có được một cuộc sống tự chủ không? Rõ ràng là khó. Bởi con người ta thường là mong cầu, lao ra, chạy theo, bắt bóng những cái bên ngoài cho nên mình bị lệ thuộc nó, lúc nào cũng bồn chồn, bất an, khó có sự an ổn trong lòng. Khi chúng ta bám vào một cái gì mà cái đó bị hỏng thì mình sẽ bị té. Hễ bị lệ thuộc vào một cái gì thì khi cái đó mất, mình sẽ bị hụt hẫng, khổ đau.
Hiện tại đâu phải thiếu những người bị mất thăng bằng vì lao theo vật chất. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận những cái tiến bộ để mình bảo thủ, lạc hậu. Điểm chính yếu ở đây là sử dụng, nhưng đừng để những cái đó đánh lừa rồi quên mất chính mình, mà mình phải luôn luôn thực sự có đủ khả năng làm chủ nó, đừng để nó lừa dẫn mình đi rồi sau đó chịu khổ. “Hãy là chính mình đang điều khiển cái máy, đừng bao giờ để máy điều khiển mình”. Quý vị nào thường sử dụng máy tính, có nên in câu này dán trên máy tính mình không? Cái máy là vật dụng, sao lại để nó điều khiển mình? Quá vô lý, phải không? Nhưng nó sẽ điều khiển mình khi nào? Khi vừa quên giác tỉnh, quên mình, biết theo nó, lao theo sự chi phối của nó thì bị nó điều khiển ngay. Vừa quên thì xoay lại, mà nhớ lại thì đang là chính mình. Nếu luôn luôn nhớ tỉnh giác, tự chủ, không để quên và bất giác thì chúng ta mới làm chủ để sử dụng nó. Ngược lại thì nó làm chủ, trói buộc và sai khiến mình.
Nãy giờ nghe nói thì nhiều, nhưng lý do chính vẫn là do mê, do một niệm bất giác của con người rồi lao ra, chịu khổ. Chúng ta có thể nhận ra điều này từ những chuyện rất nhỏ. Ví dụ đang xem truyền hình hay đang say sưa làm máy tính, thình lình mất điện, máy tắt “phụp”, nếu quý vị giựt mình, hụt hẫng, khó chịu, bực bội… thì liền phát hiện ra trước đó chúng ta đã quên giác, bỏ mất mình, lao theo cảnh vật bên ngoài, khổ đau có ra ngay. Cũng thế, khi đang sống trong một hoàn cảnh thuận lợi nào đó, thình lình bị thay đổi mà chúng ta khổ thì biết được rằng, trong hoàn cảnh thuận lợi trước đó, mình đã lỡ quên mình và dính rồi. Còn nếu tâm mình không bất giác lao ra thì bất cứ hoàn cảnh nào thay đổi cũng không làm cho quý vị khổ được. Thực tế mà nói, bất kỳ hoàn cảnh nào trên đời này nó đều không có khả năng, không đủ giá trị làm chúng ta khổ được, nhưng sở dĩ con người khổ là do quên mình, bất giác lao ra cho nên mới bị nó chi phối rồi khổ đau.
Ngày xưa, ông Nguyễn Công Trứ lên làm quan, mỗi ngày đều có lính hầu hai bên. Thời gian sau ông bị phế xuống làm lính và người lính của ông ngày xưa lại được lên làm quan. Ông phải đứng hầu ngược trở lại người đã từng là lính của mình trước đó. Vị quan từng là lính hầu của ông thấy vậy, nghĩ tình ngày xưa nên hỏi: “Ở trong hoàn cảnh này, ông có thấy nhục nhã không?”. Ông Nguyễn Công Trứ nói: “Khi xưa lên làm quan, tôi không thấy có gì làm hãnh diện, cho nên hôm nay bị giáng xuống làm lính thì cũng không thấy có gì xấu hổ cả”. Rõ ràng là trong khi làm quan mà không quên mình dính chấp trên danh phận thì khi giáng xuống làm lính cũng không thấy có gì mất để xấu hổ. Mới thấy, khổ và không khổ là từ chỗ tâm mình có lao ra hay không lao ra mà thôi, chứ cảnh đâu có gì! Đủ duyên làm quan thì cứ làm quan, chưa đủ duyên thì cứ đi cày bình thường. Ở cảnh nào tâm mình cũng vậy, không có đi ra, ở nguyên bản vị của mình. Lên xuống, xuống lên đó là cảnh, mình vẫn ở bản vị thì có gì khổ đâu. Như vậy là mình đang giác chứ đâu có mê, làm sao mà khổ được. Giống như khi nãy ông quan thấy cái bàn khác, thấy con chó khác là thấy trên cảnh, bây giờ mình đang rõ thấy đây thì trả lại bản vị nguyên thể là mình, thì hai cái khác đó đều đang hiển hiện trong tự tánh chánh định, trong lặng mà đang sáng biết và thấy đây, thì có phải là “tình cùng vô tình chung một thể” không? Nếu thấy khác thì đó là quên bản vị mà thấy trên vật rồi. Bây giờ đừng lao ra nữa, trả lại bản vị giác ban đầu thì có lên làm quan cũng vậy, mà có xuống đi cày ruộng cũng vậy thôi, có gì đâu mà khổ. Làm quan hay đi cày ruộng đều không lỗi, mà lỗi là ở chỗ mình bất giác, lao ra dính chấp. Mới thấy, không niệm lao ra thì sống trên bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng không bị các cảnh làm khổ.
Từ nãy giờ quý vị đã nghe qua và biết rõ như vậy rồi, nhưng đó vẫn là giặc bên ngoài, còn một tên giặc bên trong nữa, chúng ta phải khai triển cho hết thì mới giải quyết được những rắc rối của cuộc đời. Một khi đã giải quyết xong thì mình mới trả lời được câu hỏi, nếu không thì trả lời chưa được trọn vẹn.
IV/ KHỔ DO CHẤP NGÃ.
Ngày xưa, vào thời vua Lương Võ Đế, có một vị Thiền sư tên là Suy Hải, vị này ẩn cư trong núi tuyết tu hành rất miên mật, nhập định rất sâu, đến nỗi tuyết phủ khắp các nơi, nhưng không phủ được ngọn núi ngài đang ngồi thiền. Ở kinh thành, vua Lương Võ Đế đang ngồi đàm đạo với Hòa thượng Chí Công, nhìn ra xa vua thấy tất cả các ngọn núi đều có tuyết phủ, nhưng có một ngọn núi lại không có tuyết. Vua ngạc nhiên hỏi thì Hòa thượng Chí Công nói, bởi vì trong ngọn núi đó có một vị tăng đang nhập định. Vua Lương Võ Đế nghe vậy lấy làm mến mộ, khâm phục và cho người thỉnh về kinh thành để có dịp cúng dường, thưa hỏi Phật pháp. Khi thỉnh về một thời gian, thấy đời sống của Thiền sư Suy Hải, vua rất thán phục và hết lời khen ngợi. Vua thưa với Hòa thượng Chí Công:
- Trẫm thấy đây là một vị tăng đạo hạnh vẹn toàn, sức định rất sâu, tu hành rất xứng đáng.
Hòa thượng Chí Công là bậc phi phàm chứ không phải người thường. Ngài biết nên cười và nói rằng:
- Vị tăng này tuy rằng sức tu rất cao, nhưng vẫn còn một chút chấp ngã bên trong. Chính cái chấp ngã này làm cản trở bước tiến.
Vua nghe như vậy vẫn chưa tin. Hòa thượng Chí Công nói:
- Muốn thử vàng phải dùng lửa. Bệ hạ muốn biết người này tu hành đến mức nào thì cũng nên dùng một số phương tiện.
Được sự chỉ bày của Hòa thượng Chí Công, vua Lương Võ Đế thiết một buổi tiệc trai tăng, mời tất cả các vị tôn túc ở các nơi đến để cúng dường. Trong lễ trai tăng, những bàn khác đều được trải bằng khăn đẹp, dọn chén đũa đẹp, tốt, thức ăn thượng vị. Riêng bàn của Thiền sư Suy Hải trải một tấm ni lông lùi xùi, thức ăn thì rau luộc với cơm nấu bằng gạo cũ, chỉ dọn đũa tre. Nhưng Thiền sư Suy Hải vẫn ngồi ăn bình thường, không có gì tỏ ra khó chịu. Vua Lương Võ Đế thấy vậy rất ăn năn, thưa với Hòa thượng Chí Công:
- Thưa Hòa thượng, trẫm thấy áy náy trong lòng rất nhiều vì thấy Thiền sư vẫn bình thản, không tỏ ra thái độ gì.
Hòa thượng Chí Công cười và nói:
- Sóng đã nổi trong lòng của vị ấy rồi, bệ hạ không tin thì hãy thử thêm một lần nữa sẽ biết.
Lần sau, vua Lương Võ Đế tiếp tục thỉnh mời các vị tôn túc trong nước lại để cúng dường tứ sự. Mỗi vị được dâng lên một xấp lụa hạng tốt. Riêng Thiền sư Suy Hải thì cung nữ chỉ đem ra xấp vải thô, xấu. Vua Lương Võ Đế còn nói thêm:
- Sở dĩ có sự sai biệt này là vì Trẫm xét thấy vị tăng này đức hạnh còn khuyết, sự tinh tấn chưa đủ cho nên không thể nào ban tặng vật phẩm giống như chư vị tôn đức được.
Nghe đến đây, Thiền sư Suy Hải hết chịu nổi, đứng phắt dậy, mặt mày đỏ bừng lên, và nói với giọng run run:
- Tâu bệ hạ, tôi vốn chọn chốn núi rừng làm nơi yên tu, không hề màng tới công danh lợi dưỡng. Cớ sao bệ hạ lại buộc tôi về đây rồi bày ra những trò nhục nhã như thế này. Xin cho tôi trở về núi rừng sống đời tiêu dao của tôi, đừng có làm những việc như thế này nữa.
Nói xong, vì quá ức, Thiền sư Suy Hải phun ra một búng máu rồi ngã lăn ra chết tại chỗ. Cả hội chúng đều kinh hãi. Riêng vua vừa ân hận, vừa lo sợ vì mình không có ác ý, chỉ thử theo lời Hòa thượng Chí Công thôi. Khi ấy, vua ngoái lại nhìn Hòa thượng Chí Công cầu cứu. Hòa thượng Chí Công nói:
- Không sao đâu, vị tăng này tuy cả đời tu hành nhưng vì sân giận, uất ức mà chết nên thần thức hiện đang gá vào loài bàng sanh, cụ thể là gá vào thân một con chim mới nở. Vì công phu tu hành có định lực cho nên trên lưng con chim đó có hai chữ Suy Hải. Bệ hạ mau cho người đi gấp về hướng Tây, đến ngã ba đường gặp một cây đại thụ, trên nhánh chìa ba, có một con chim vừa mới nở, trên lưng có hai chữ Suy Hải, bệ hạ cho bắt con chim đó đem về đây.
Vua lập tức cho người phi ngựa đi. Khi bắt về, quả đúng trên lưng con chim đó có hai chữ Suy Hải. Hòa thượng Chí Công cầm con chim khai thị rồi ném xuống sàn chết. Thần thức của Ngài Suy Hải thoát ra nhập trở lại xác đang nằm trên sàn. Các ngự y xoa bóp một lúc thì Thiền sư Suy Hải tỉnh dậy và trở về phòng. Sau ba ngày được bình phục, Hòa thượng Chí Công mới gọi lên và nói rõ cho biết:
- Ông tu hành rất tốt, sức định rất sâu, nhưng còn một chút chấp ngã chưa trừ sạch. Chính cái chấp ngã này là gốc của sự nóng giận và đi trong luân hồi. Ông thấy bao nhiêu công phu tu hành của mình chỉ vì một cơn nóng giận mà bị rơi vào loài bàng sanh. Nếu không có người khai thị cho thì ông sẽ tiếp tục trôi lăn từ giống loài này sang giống loài khác, ngày nào mới có thể thoát ra được! Bây giờ nếu tiếp tục tu hành mà còn giữ cái chấp ngã đó không chịu nhổ sạch thì chính cái chấp ngã đó là gốc đi vào trong sanh tử luân hồi, khó thoát ra được.
Vì uy đức của Hòa thượng Chí Công nên cảm hóa được toàn bộ con người Thiền sư Suy Hải. Từ đó Ngài tu hành tốt hơn.
Quý vị thấy câu chuyện giàu sang của anh nông dân khi nãy là tại vì anh thích sự giàu sang nên sau này anh mới bị khổ. Còn Thiền sư Suy Hải thì không hề thích chốn kinh thành, chẳng qua vì vua ép nên phải về thôi. Nhưng khi mời về rồi bị hủy nhục thì Ngài giận mà chết. Đó là điều vô lý. Nhưng nếu khéo nhìn lại thì sẽ thấy cái chấp ngã vi tế ở đây.
Khi mời về thì đó là chuyện của nhà vua, Thiền sư Suy Hải không hề muốn về, chỉ vì vua mà về. Rồi mời về và tôn kính cũng là chuyện của nhà vua. Đến khi hủy nhục, hạ xuống tận cùng cũng là chuyện của nhà vua. Nếu bị vua hủy nhục thì đó lại là cơ hội tốt để mình được tự do làm theo chí nguyện ở núi rừng của mình. Nhưng điều vô lý ở đây là tại sao Thiền sư Suy Hải lại giận đến nỗi ói ra máu rồi chết. Như vậy là vì lý do gì? Đây là một cái mâu thuẫn nơi mỗi con người chúng ta. Nếu không phát hiện lý do này thì chúng ta khó trừ nổi cái làm khổ mình. Lý do đó quý vị biết từ đâu chưa? Đó là vì cái niệm thầm thầm chấp ngã bên trong. Nó là một con ma ảo ảnh không hình tướng, nhưng vẫn âm ỉ sống ngầm dai dẳng bên trong. Mình không soi thì nó không mất. Phải soi cho thấy, giống như ánh sáng chiếu vào thì bóng tối mới tan. Nếu không xét cho kỹ thì khó thấy cái tình chấp ngã nó len lỏi như thế nào. Nó vi tế lắm! Chúng ta bị khổ mãi là do anh chàng này. Những cảnh hai bên bên ngoài chỉ là cành mà chính nó mới là gốc rễ. Giật bên này thì mình bị nhảy sang cành kia, và giật bên kia thì mình lại bị nhảy qua cành này. Do cái bên trong nó lái, rồi bên ngoài mình cứ bị quay quần chóng mặt và khốn khổ mãi. Từ đó mới thấy, gốc tại một cái chấp ngã bên trong. Nhưng cái ngã có thật không? Nó là một cái niệm chấp thầm thầm khiến mình tưởng là có một cái ngã bên trong, nhưng tìm lại thì rõ ràng không thấy gì cả, mới biết nó không có thật. Tuy nó là giả, nhưng nếu chúng ta không biết mà chấp giữ thì nó là gốc làm khổ mình không ít.
Ở trên, quý vị đã nghe phân tích những cái bên ngoài là giả, nhưng đến đây mới thấy thêm một điểm nữa là bên trong mình vẫn còn nhiều giặc đang ngự trị, nhưng tên giặc chính vẫn là tình chấp ngã. Vì vậy chúng ta cần phải khéo thấy cho rõ bên trong nữa mới trừ tận gốc rễ được. Nếu không thấy rõ thì chính cái trôi chảy nhỏ nhiệm đó nó âm thầm gạt mình, làm cho chúng ta khổ đau mà không hay biết.
(Còn tiếp)
Sửa bởi người viết 18/08/2013 lúc 10:03:16(UTC)
| Lý do: Chưa rõ