Ngồi đây mà nói thì thấy giống như giả thuyết, không thấy có gì quan trọng. Nhưng nếu quý vị nào lâm
vào tình trạng bất ổn rồi thì mới thấy rõ, vượt qua được cái bất ổn do hành động bất bình thường của
mình gây ra không đơn giản chút nào. Biết như vậy thì nên khéo chỉnh tâm cho bình thường trở lại, để
sau này không phải ăn năn, hối hận, sống trong cảnh vay trả khổ đau. Đằng nào cũng phải điều chỉnh,
thay vì sau khi ân hận rồi mới điều chỉnh thì ngay từ bây giờ điều chỉnh tâm mình bình thường trước cho
kịp thời thì sẽ ngăn chặn được những sai lầm, những ray rứt, những vất vả và đau khổ sau này.
Cụ thể trong cuộc sống hàng ngày, quý vị tự chiêm nghiệm lại, nhìn cho thật kỹ để thấy rõ từng trường
hợp xảy đến. Khi sự việc xảy ra, nếu sáng suốt để ứng xử, để giải quyết trong một tâm thái bình thường
thì sau đó tâm mình cảm thấy hợp lý, yên ổn. Còn nếu thiếu sự tỉnh sáng thì chúng ta dễ giải quyết sự
việc trong tình trạng bất bình thường mà có khi phải lâu sau đó mới nhận ra, để rồi cảm thấy ăn năn, hối
tiếc, không an. Trong khoảng thời gian lỡ lầm đó, chúng ta đã làm cho biết bao nhiêu con người khác
phải đau khổ theo vì cái tâm bất bình thường của mình. Mình đã gây tạo cái nhân không tốt như vậy thì
sẽ phải gánh chịu hậu quả. Quả báo đó lấy gì để bù lại cho được? Mới thấy, ứng xử, hành động thiếu sự
cân nhắc, không những đem lại hậu quả không tốt cho chính mình, mà còn làm ảnh hưởng đến những
người chung quanh. Biết vậy để mình điều chỉnh cuộc sống cho thật bình thường, không gây hại cho
mình và người, sống thật tốt, không làm ảnh hưởng đến người khác.
Tuy nhiên, trong thế gian, có những việc nhẹ mình còn có thể bình thường được, nhưng khi những sự
việc xảy đến quá sức chịu đựng thì tâm mình liền bất ổn, bất bình thường. Trong tâm sẽ tự dấy lên nhiều
suy nghĩ chồng chất, sôi sục khiến mình không tỉnh táo. Đứng trước trường hợp này chúng ta nên ứng
xử như thế nào? Trước tiên, chúng ta khoan quyết định một điều gì cả. Tâm đang sôi sục mà quyết định
thì rất là nguy hiểm, có khi phạm đến thân mạng của người khác hoặc có khi khiến mình phải mất mạng.
Lúc ấy, tâm có sôi sục, có thôi thúc làm gì chúng ta cũng đừng quyết định hay thực thi một vấn đề gì cả.
Phải đợi đến khi tâm thái thật sự bình thường, không vì thương ghét, mừng giận hay hại ai rồi mới bắt
đầu quyết định. Có thế mới không bị nhầm lẫn, không trái đạo đức, không đưa đến ăn năn hối hận và gây
đau khổ cho mình và người về sau. Nhưng khi nó đang trổi dậy thì quý vị phải làm sao để không quyết
định theo nó? Nếu không thắng được nó, không cho nó dừng lại ngay thì có một cách là mình cứ mặc kệ
cho nó tự suy nghĩ thỏa mái mà đừng theo, giống như ngồi cười nhìn xem chơi, mặc cho đứa bé thơ
ngây nhà mình lên phương án một cách thỏa mái, nhưng chúng ta không cho nó cơ sở để thi hành. Nó
không chịu dừng mà còn sôi sục giận dữ quá hay buồn lịm bất an thì cứ nằm đó bất động, buông thư,
không thèm nghĩ gì cả, cứ để cho tự nó muốn nghĩ gì thì nghĩ mà mình không nhúc nhích, không thi
hành. Một hồi sau nó suy nghĩ đã nư rồi thì tự nhiên nó không còn giá trị. Chúng ta đứng dậy với một sự
tỉnh táo và tức cười cho những nghĩ suy vớ vẩn trước đó và mình được bình thường trở lại. Đây là một
kinh nghiệm cá nhân. Khi nào quý vị thấy bất ổn nhiều quá thì cứ vô phòng riêng đóng cửa lại, buông hết,
nó lên phương án phải làm thế này thế nọ, kệ nó, cho lên thoải mái mà mình cứ bất động, buông thỏng
hết thân tâm, không thèm thi hành theo nó thì nó chịu thua. Mình phải kinh nghiệm như vậy để không nên
quyết định hay giải quyết bất cứ vấn đề gì trong khi tâm mình bất ổn, để về sau không có gì ăn năn, hối
tiếc cho việc làm của mình.
5/ Làm sao để ổn định, để được bình thường?
Bây giờ quý vị đã biết rõ sự lợi hại của tâm bình thường và bất bình thường rồi, nhưng phải làm sao để
tâm mình được ổn định và bình thường?
5.a/ Phải có sự tu tập.
Phương pháp đầu tiên là phải có sự tu tập, đó là cái cần thiết trên hết. Trong Kinh, đức Phật ví dụ tâm
mình như dòng nước chảy rất mạnh, gọi là cuồng lưu. Dòng cuồng lưu chính là nguyên nhân gây ra bao
nhiêu tội lỗi. Cũng dòng nước dữ dội đó, nếu quý vị khéo đắp đê điều, dẫn nước chảy thành dòng theo
sự điều khiển của mình thì có thể sử dụng để tưới ruộng được. Cũng vậy, một tâm cuồng lưu cuộn trào
đó, nếu mình biết sử dụng thì nó lại trở thành lợi ích. Hoặc quý ngài ví dụ tâm mình giống như con rắn,
nếu thả cho tự do thì nó bò ngoằn ngoèo, loạn xạ, nhưng nếu cho vào ống tre thì tự động nó phải bò
thẳng. Tâm mình đang bất bình thường, loạn xạ, phải nhờ vào hàng rào giới luật để giữ gìn, phải có thời
khóa tu tập sinh hoạt cho mình thật là ổn định. Tùy thuận hòa mình vào được một khuôn phép chung như
vậy thì cái tự ngã riêng tư nó được hòa tan, quý vị mới chế ngự được cái bất ổn, cái bất bình thường
ngông cuồng thơ dại của mình. Đó là nhờ vào sự tu tập thực sự và cụ thể để điều hòa cho tâm được
bình thường.
5.b/ Phải có tính quyết định, dứt khoát.
Thứ hai là phải có tính quyết định, dứt khoát. Chúng ta cần rà soát kiểm tra lại, tại sao hàng ngày mình bị
tâm lao xao làm cho dao động, bất ổn, không bình thường? Vì còn có gì đó lờ mờ, không rõ ràng, không
dứt khoát dẫn đến tâm thái mình không ổn, chưa giải quyết xong. Bây giờ mình phải biết để điều chỉnh.
Nhìn lại, tất cả sự thể xảy ra trên cuộc đời này, dù lớn hay nhỏ, nhìn cho tận cùng, nó đều có một kết quả
nhất định ở một mức độ nào đó của nó. Tại vì lâu nay mình chưa nhìn thấy rõ để chấp nhận một kết quả
tương đối của nó nên cứ phân vân chưa quyết định. Bây giờ, đối với tất cả sự việc xảy đến, chúng ta đều
có sự sáng suốt trong trạng thái tỉnh táo, bình thường để nhìn nó, nhận định kết quả cuối cùng của nó là
thế nào, sự việc như vậy thì nó sẽ đi đến đâu để đưa ra hướng quyết định chấp nhận mạnh mẽ. Đừng
có thái độ hàng hai, phân vân, đòi hỏi thái quá mà không rõ ràng, dẫn đến tâm mình không ổn, cuộc sống
bấp bênh, hiệu quả không có, đôi khi còn tồi tệ hơn. Bằng với tâm như vậy để giải quyết thì trong lòng
không còn lao xao hay phân vân nữa. Có vậy đời sống của chúng ta mới có thể ổn định và bình yên. Nếu
không có thái độ dứt khoát, cứ để nó phân vân, tâm mình bị lao xao, mênh mang vô định đưa đến bất
ổn, không được bình thường, cuộc sống rất là chán ngán, khổ sầu.
5.c/ Phải luôn tỉnh giác, giữ tâm an tĩnh.
Thứ ba là phải luôn tỉnh giác và giữ cho tâm được an tĩnh. Một lúc nào đó mình ngồi thiền, thấy có một
khoảng tâm rất yên lắng, thân thể thoải mái, nhẹ nhàng, lúc xả thiền ra đi lại thì thân tâm vẫn thơi thới, nhẹ
nhàng, vui vẻ. Khi ấy, bằng cái tâm khinh an đó để nhìn lại tâm thái trước khi chưa tọa thiền, mới thấy
mình lúc nào mình cũng lao xao, động đậy, lăng xăng, lộn xộn, vội vội vàng vàng, chộp cái này, bắt cái
kia, giống như một đứa trẻ con máy động không khác, không lúc nào chịu ngồi yên một chỗ. Quý vị nào
đã từng ngồi thiền, có những phút giây yên định mới thấy cái tâm bất bình thường của mình một cách
đầy đủ, mới thấy mình sống rất là uổng, rất là lảng phí một cách đáng tiếc. Còn lúc đang động thì mình
đang sống bằng cái tâm bất bình thường nên khó thấy được nó là trẻ con, quê mùa, ấu trĩ, thô tháo,
ngông nghênh…, làm trò cười cho hàng thức giả. Thấy được như vậy mới sực tỉnh và tự khéo quân bình
lại tâm của mình, để lúc nào mình cũng sống bằng tâm bình thường giống như lúc chúng ta đang tọa
thiền an ổn.
Thông thường khi gặp việc gì đó, mình thường phản ứng liền, phản ứng nhanh quá không kịp sáng suốt
chính chắn, sau đó lại ăn năn. Giờ gặp việc, khoan phản ứng quá nhanh mà phải giữ tâm an tĩnh để nhìn
nó một cách lặng lẽ. Phải quyết tâm khéo léo tìm lấy cho được cái lặng trong, sáng ngần trên cảnh
nghịch đó. Cứ tự hỏi ngay trên nghịch cảnh đây, Phật pháp chân thật đang ở chỗ nào? Khi tha thiết cần
nhận lại sự trong trẽo, cần nhận lại Phật pháp chân thật chứ không cần nhận những thứ nghịch duyên kia,
bỗng dưng tâm ta trở nên yên lắng, tỉnh táo trên nó. Chính sự tỉnh táo, sáng suốt, nhìn tường tận sự việc
để giải quyết nên mang lại hiệu quả cao hơn, không bị lỗi lầm khiến về sau phải ăn năn, hối hận.
Ví dụ, ai đó làm trái ý mình, xúc phạm mình, phản ứng đầu tiên là muốn trả lại bằng tất cả những gì mình
có, bao nhiêu ngôn từ hoa mỹ dẹp sang một bên hết, và tranh thủ gom những từ nào độc hại, hiểm hóc
nhất để dội vào nhau cho thỏa cái tâm sân. Khi đang đấu tranh thì hăng hái lắm, nhưng khi làm xong rồi,
bình tĩnh nhìn lại, thấy hậu quả của nó thì lại ăn năn: phải chi chịu nhịn một chút, chịu thiệt một chút cho
người ta không đau khổ thì bây giờ thấy mình cao thượng biết mấy? cuộc sống sẽ có ý nghĩa hay ho biết
mấy? và tâm mình sẽ yên ắng, thanh cao biết dường nào! Đằng này chỉ vì thiếu tỉnh táo không nhận ra, vì
một chút tự ngã sân hận tham đấu đá để thắng người ta, giờ nhìn lại chiến thắng đó không dùng được
vào đâu cả mà còn thấy mình là thấp hèn, bàng hoàng, lo sợ… Phản ứng liền là hành động bất bình
thường, sẽ đưa đến tai hại, không đúng. Chúng ta cứ bình tâm để suy gẫm, nếu mình trả thù, họ thua, họ
đau khổ, thì lòng mình cũng cảm thấy bất ổn. Ngược lại, nếu mình chịu thiệt một chút thì cũng không mất
mác gì mà sau đó mình lại cảm thấy yên lòng, xứng đáng là một con người cao thượng hơn là đi cãi vả,
đánh đập người ta. Nhìn thấy và cảm nhận được cái khổ của người khác sau khi bị hại thì mình sẽ chịu
thiệt và nhường cho họ được. Nếu như mình cảm nhận được người khác khổ cũng như mình đang khổ,
ngay đó là chúng ta đã tỉnh táo, đã bình thường, không nỡ làm cho người khác khổ đau. Việc làm không
gây đau khổ cho mình, cho người trong hiện tại và tương lai, đó là việc làm trong tình trạng bình thường,
đưa đến hậu quả tốt, thánh thiện, an vui.
Biết rõ như vậy rồi, khi nhỡ gặp chuyện gì xích mích trong cuộc sống hoặc trong gia đình có sự cãi vã
giận hờn nhau thì liền biết là bất bình thường, ngay đó nên buông xuống, bỏ qua, đừng cố phân đúng
sai, phải trái nữa là được yên. Không có một cái đúng nào tồn tại trong khi tâm bất bình thường. Khi ra
đường, nhỡ có ai chửi mình thì đó là hành động bất bình thường, biết được người ta bất bình thường là
mình đang tỉnh táo và sáng suốt, thì chúng ta phải tiếp tục xứng đáng là một con người tỉnh táo, bình
thường. Nếu không buông bỏ được mà chửi lại họ thì đó là mình đã tình nguyện trở thành một thành viên
sáp nhập vào nhóm bất bình thường. Trong mọi lúc mọi nơi mình đều biết như vậy thì không có việc
đáng tiếc xảy ra cho mình và người khác. Đó là trong cuộc sống đời thường.
6/ Tâm bình thường trong công phu tu tập.
Bây giờ sang phần tâm bình thường trong công phu tu tập.
6.a/ Không vì bên ngoài mà dụng công tu tập.
Khi chúng ta vì một cái gì bên ngoài để tinh tấn tu hành thì chúng ta sẽ rơi vào tình trạng bất bình thường
mà tu. Công phu như vậy sẽ đưa đến kết quả không như ý muốn, nếu không muốn nói là đi vòng ngoài,
chưa thẳng vào trọng tâm đạo lý chân thật.
Một hôm nào đó, chúng ta thấy tình cảnh cuộc đời xấu xa không như ý mình, nên suy nghĩ phải phát tâm
tu hành cho mạnh mới được. Như vậy là vì cái bên ngoài mà tu hay vì mình mà tu? Vì cái bên ngoài.
Hoặc có khi vì gia đình mình như thế nào đó, bực bội không chịu được nên phát tâm tu hành cho mạnh.
Như vậy, quý vị vì mình mà tu hay vì gia đình mà tu? Hay trong chùa thấy mấy huynh đệ giải đãi, mình
liền hăng máu, muốn tu hành cho dữ dội, mạnh mẽ hơn mọi người… Tất cả đều có cái vì và đang vì bên
ngoài mà tu chứ chưa phải dụng tâm thẳng đến bản tánh chân thật chính mình.
Ban đầu thấy cảnh vô thường đánh thức giác ngộ tu tập thì tốt. Nhưng khi bắt tay vào dụng công thì phải
dụng đến chỗ vô sanh mới thành quả vị vô sanh được. Nếu bằng vào tâm vì bất kỳ một cái gì bên ngoài
mà tu thì đều là công phu tu hành trong cái sanh diệt, dễ dẫn đến tình trạng đột biến bất bình thường về
sau, cho nên nó không được ổn định và bền bỉ lâu dài được. Thoạt đầu thì thấy công phu có vẻ mạnh
mẽ, dữ dội, tu tập hơn mọi người chung quanh, ngồi thiền yên ắng lắm. Nhưng được một thời gian thì dễ
sanh bệnh, không tồn tại lâu dài mà chỉ trong thời gian rất ngắn rồi sẽ bù lại bằng một sự mệt mỏi, chán
chường, buông lung và giải đãi, thả trôi trở lại. Trong chúng có thời khóa ổn định bình thường, hôm nào
đó có ai đột biến phát nguyện tu bất bình thường là vị thầy phải khuyên dạy người đó liền. Đây là kinh
nghiệm thực tế mà quý Thầy đã trải qua. Tại sao lại như vậy?
Khi chúng ta vì một động lực gì đó bên ngoài để tu, là có tâm mà tu hay không tâm mà tu? Là có tâm. Mà
tâm có là có hình tướng, có giới hạn, rơi vào sanh diệt. Dùng cái sanh diệt để tu là sống trong nhân sanh
diệt thì làm sao trở thành quả vị vô sanh được? Gần hơn nữa, chính vì dùng tâm có giới hạn, sanh diệt
nên tâm đó không đủ lớn, không đủ sức bất động để bền bĩ tồn tại lâu dài. Muốn tiến tu một cách đúng
mức, ổn định và tiến mãi thì chúng ta không nên vì bất cứ một động lực hay một cái gì bên ngoài, mà
phải từ một tâm bình thường, phẳng lặng để tu thì mình dễ an định, dễ khế hợp với đạo lý chân thật
không sanh không diệt.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật dạy: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp
sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, có nghĩa là “Không nên trụ trên sắc mà sanh tâm, không nên
trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Cụ thể là: Nên
không có chỗ trụ mà phát tâm vô thượng bồ đề. Không dừng trụ trên các trần cảnh, ngay đó tâm ta rỗng
lặng, sáng rỡ, thênh thang. Bằng vào tâm đó là tâm bình thường, sống thẳng đó là khéo tu hành, đó là
dụng tâm thẳng đến chỗ chân thật, công phu không bị sai lạc rơi vào sanh diệt, dễ an định, sẽ an ổn và
bền bĩ lâu dài, không bị lui sụt. Còn nếu vì một cái gì đó bên ngoài, tức là trụ vào sáu trần mà tu thì có
phải là đã trái lại với lời Phật dạy ở đây không?
Ví dụ trong Thiền viện mình đang có thời khóa tu tập đều đặn hàng ngày, huynh đệ nào cũng hòa vào
trong đó và tu tập tiến bộ, sống đời an lạc giải thoát. Bỗng dưng một hôm nào đó mình muốn làm nổi
hơn người khác, muốn công phu nhiều hơn bình thường thì nên tự hỏi lại mình, tại sao, động lực nào
khiến mình muốn làm như vậy? Nếu thành thật nhìn lại đáp án thì chúng ta sẽ thấy có một cái vì gì đó.
Mà có vì một cái gì đó để tu tức là trụ vào sáu trần mà công phu rồi. Đức Phật dạy không nên trụ sáu trần
để dụng công tu tập mà chúng ta lại trụ vào sáu trần mà dụng công tu thì có đúng với lời đức Phật đã chỉ
dạy chưa? Hơn nữa, trụ trên sáu trần tức là có tâm mà tu, là bất bình thường mà tu, công phu như vậy
ban đầu thì thấy rất mạnh, nhưng sau rồi sẽ tụt xuống trở lại. Nhìn cho kỹ thì mới nhận ra và trị được bệnh
của mình. Khi bị đột biến thì tâm nó mạnh lắm, không ai ngăn cản được cả, chỉ có chính mình phải tự
nhận ra thì mời dừng lại được, nếu không thì rất khó dừng lại cho bình thường và phải chịu lấy hậu quả
về sau. Việc này đã có không ít những vị tu hành cũng đã từng trải qua những trường hợp tương tự như
vậy. Qua đó cho thấy, dụng công tu hành phải bằng vào một tâm thực sự bình thường thì mới có thể tu
tiến và không bị sai lệch. Còn nếu muốn làm cái gì đó kỳ đặc thì phải nhớ rằng, những cái kỳ đặc chẳng
qua là dấu vết của những thứ bên ngoài thôi, không đáng để mình theo. Biết được như vậy để mình
khéo chỉnh cho cân bằng, tu hành cho bình thường để đưa đến kết quả không bị sai lệch.
6.b/ Lìa hai cực đoan.
Khi hạ thủ công phu tu hành, thường mình hay bị rơi vào hai cực đoan. Hoặc là buông lung, xao lãng, hay
quên. Hoặc là kềm kẹp, đè nén, chăm bẵm. Nếu không khéo dụng công thì, không rơi vào cực đoan này
cũng rơi vào cực đoan khác. Như vậy tức là từ bất bình thường mà tu nên không tiến bộ được.
Có một học Tăng đến pháp đường thưa với Thiền sư rằng:
- Thưa Thiền sư! Con thường thường ngồi thiền, luôn luôn niệm kinh, dậy sớm thức khuya, tâm không
tạp niệm, tự xét dưới tòa của Thầy không có ai dụng công hơn con, tại sao không cách gì có thể khai
ngộ được?
Thiền sư cầm một hồ lô và nắm muối hột đưa cho vị học Tăng, nói:
- Con đem hồ lô này đựng đầy nước rồi bỏ muối vào cho nó hòa tan, lập tức con sẽ khai ngộ.
Học Tăng vâng theo lời mà làm, không bao lâu, chạy vào thưa:
- Miệng hồ lô quá nhỏ và nước đã được đựng đầy, con đem bụm muối bỏ vào, hòa tan không xong, lấy
cây khuấy cũng chẳng động, con lại chẳng có cách nào khai ngộ được.
Thiền sư cầm hồ lô đổ bớt ra một ít nước, chỉ lắc nhẹ vài cái, khối muối liền tan hết. Thiền sư từ tốn nói:
- Một ngày từ sáng đến tối dụng công, nếu chẳng để lại một chút tâm bình thường thì cũng như hồ hô
đựng đầy nước, lắc không động, khuấy không được, thì làm sao tan muối, làm sao khai ngộ được?
Học tăng hỏi tiếp:
- Nếu vậy, chẳng lẽ không dụng công mà có thể khai ngộ được sao?
Ban đầu ông tăng này dụng công căng thẳng quá nên đã rơi vào cực đoan chăm bẵm, đè nén. Giờ nghe
Thiền sư nói dụng công căng quá là không khai ngộ được, thì ông tăng liền rơi vào cực đoan thứ hai là
không dụng công, xao lãng, buông lung. Rõ ràng tâm chúng ta rất dễ rơi vào hai bên cực đoan, không dễ
dụng công đúng nghĩa trung đạo, bình thường. Thiền sư nói:
- Tu hành cũng giống như đánh đàn, nếu dây căng quá thì đứt, còn dây chùn quá thì khảy không thành
tiếng. Tâm phải bình thường trung đạo, mới là gốc của căn bản ngộ đạo.
Dây đàn căng là ví cho công phu quá kềm kẹp, đè nén; dây đàn chùn là ví cho tâm ta xao lãng, buông
lung. Rời hai cực đoan này thì tâm mới bình thường, hợp với trung đạo. Dụng tâm như thế mới khế hợp
đạo lý, mới có cơ hội ngộ đạo.
Nếu một ngày chúng ta dụng công rất dữ dội, đè nén từ sáng tới tối liên tục căng thẳng, không có một
chút buông thư thì giống như hồ lô đựng đầy nước, lắc không động, khuấy không được, bằng tâm đó để
dụng công thì làm sao ngộ đạo được. Nhưng nếu chúng ta không tu gì hết thì trả lại nguyên hình phàm
phu vọng động, rơi vào buông lung, thì cũng là sai. Thực tế khi công phu, chúng ta dụng tâm vẫn phải
mạnh mẽ, miên mật, nhưng không phải kềm quá mà cần có một chút thoáng để tự mình buông thõng, lơi
ra một chút thời gian để chính mình chuyển thân, trả lại trạng thái thực sự bình thường, không gấp quá,
không khẩn quá, cũng không phải buông lung quá. Khi quý vị khéo dụng công, khéo sống, khéo tu tập
như vậy thì sẽ có lúc, quý vị tự dưng cảm nhận bất chợt rơi vào một chân trời mà mình không ngờ trước
được, rất tuyệt vời. Cứ thực sự bắt tay vào công phu tu tập rồi quý vị sẽ thấy.
Do đó, Thiền sư Duy Khoan có nói: “Phàm phu thì vô minh, nhị thừa thì chấp trước, lìa hai bệnh này gọi
là chân tu. Người chân tu không được chăm chú, không được quên lãng. Chăm chú thì gần với chấp
trước, quên lãng liền rơi vào vô minh. Đây là tâm yếu vậy”.
Phàm phu thì vô minh, mờ mịt, không biết; hàng nhị thừa thì chấp trước, thấy có công phu, có chỗ chứng
đắc nên giữ, tức là rơi vào kềm giữ rồi. Lìa hai bệnh này để dụng công tu hành mới thực sự đúng với
trung đạo, mới bình thường, mới đạt đến được đạo lý chân thật, rốt ráo. Đây là chỗ tâm yếu quan trọng.
Tu hành cần có thời khóa rõ ràng và cần tuân thủ một cách nghiêm túc, đầy đủ để nhốt cái tâm khỉ vượn
vọng động của mình cho nó không còn chỗ sanh khởi. Đó là trừ được bệnh giãi đãi, giúp cho mình
không rơi vào quên lãng, buông lung. Nhưng nếu vì quá khích, tự mình đưa ra một thời khóa riêng tư
căng thẳng hơn thời khóa bình thường đại chúng đang dụng công, rồi bắt đầu quá quan trọng, cố chấp
vào một thời khóa biểu riêng căng thẳng đó, mình phải như vậy, như vậy, lúc nào cũng phải lật đật tranh
thủ cho kịp. Đó là rơi vào giới cấm thủ, rơi vào cực đoan thứ hai là chăm bẵm, đè nén rồi sanh bệnh.
Chính cái tâm tranh thủ, lật đật đã làm cho mình rộn lên, lao xao, loạn động, lúc nào cũng cảm thấy căng
căng. Từ đó tâm thái không còn phẳng lặng bình thường, dẫn đến công phu tu hành không tiến bộ và
sanh bệnh.
Hoặc trên cùng một thời khóa biểu hợp lý, nếu chúng ta lơ là, giãi đãi, không chấp hành đúng một cách
nghiêm túc thì đó là rơi vào buông lung, xao lãng, vô minh. Nếu lúc nào cũng cố chấp, bám chặt, khăng
khăng, khiến mình căng thẳng, dễ bực bội với mọi người, đó là rơi vào chấp trước, kềm kẹp, bị thời khóa
biểu nó câu thúc, trói buột mình. Nếu người khéo dụng công, cũng cùng trên một thời khóa hợp lý đó,
chúng ta cứ phẳng lặng, bình thường, thỏa mái, thong dong, áp dụng một cách nghiêm mật nhưng
không sanh tâm, như thế sẽ hợp với nghĩa trung đạo, công phu mau thăng tiến.
Ví dụ khi quý thầy đang nói đây thì có thể tỉnh sáng, bình thường mà nói. Nhưng khi vừa bưng ly nước
để uống thì ngay cái khoảng chuyển động đó, nếu không khéo dụng công là cái mê nó nhảy vọt vô liền.
Hoặc là quý vị đang ngồi đây nghe pháp thì ai cũng đang sáng suốt, nhưng khi vừa đặt chân xuống để
bước ra khỏi phòng thì trong khoảng đặt chân xuống đó, chúng ta hay xem thường nên cái bất giác, cái
mê mờ, vọng động nó nhảy vào nhanh lắm. Thường là khi bắt đầu chuyển từ động thái này sang động
thái khác, từ công việc này chuyển sang công việc khác, từ thời khóa này chuyển sang thời khóa khác,
chúng ta hay xem thường, sơ hở, bất giác và bị mê lầm. Muốn tu hành cho sít sao, miên mật thì phải
khắc tâm, tỉnh giác ngay chỗ chúng ta hay xem thường, sơ hở cho cái bất giác nó nhảy vào đó. Đang nói
mà muốn uống nước thì tỉnh lại rồi uống. Ngồi đây mà chuẩn bị đi ra ngoài thì tỉnh lại rồi bước chân đi.
Trên bất cứ một hành động nào chúng ta cũng cứ như thế thì công phu mau thăng tiến lắm.
7/ Đạt được tâm bình thường tuyệt đối là đạt đến đạo lý chân thật.
Bây giờ có kinh nghiệm rồi, chúng ta cũng áp dụng thời khóa một cách đầy đủ, trọn vẹn, nhưng trong tư
thế buông thõng, rất là bình thường, thoải mái, đừng tranh thủ, cứ bình thường mà chuyển động, phải
khắc tâm ngay khoảng hở đó, đừng để sơ hở cho cái mê nhảy vô. Quý vị thử công phu liên tục như vậy
một thời gian sẽ thấy rằng, mình không biến đổi tâm trên việc, từ việc này qua việc kia tâm mình vẫn bình
thường không đổi. Như vậy là không sanh khởi, lúc nào cũng là lúc bình thường đang tu và cuộc sống sẽ
trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát, an lạc. Ban đầu hơi khó, nhưng một thời gian sau sẽ thuần. Khi thuần rồi
quý vị sẽ thấy mình đang ở trên cái toàn thể sáng biết mà làm tất cả mọi việc, làm việc nào tâm mình vẫn
vậy, không đổi. Như vậy đang làm mà mình vẫn đang công phu tu tập rất có hiệu nghiệm, ứng dụng cho
đến khi thuần thục thì quý vị sẽ có năng lực sống vô biên. Có lực sống vô biên rồi thì trong bất cứ hoàn
cảnh nào, dù thuận hay nghịch, dù khó nhẫn hay dễ nhẫn, tâm mình vẫn bình thường, không thêm không
bớt. Được như vậy thì có phải là người đạt đạo chưa? Nếu nói đạt đạo thì có thể quý vị chưa dám quả
quyết, bởi tự mình chưa sống trải qua. Quý Thầy sẽ dẫn một giai thoại của Thiền sư Bạch Ẩn để quý vị
thấy rõ hơn.
Trong một ngôi làng Thiền sư Bạch Ẩn đang ở, có một cô gái bất ngờ mang thai, cha cô rất nghiêm khắc
và bắt buột cô gái phải khai tên người cha của đứa bé trong bụng. Cô gái bị ép quá mới nghĩ ra cách để
khai mà không bị phạt, bèn vu oan cho Thiền sư Bạch Ẩn là cha đứa bé. Người cha tức giận, chờ ngày
đứa bé ra đời mang đến trao cho Ngài và chửi mắng, nhục mạ hết sức thậm tệ. Khi ấy, Thiền sư Bạch
Ẩn chỉ nói: “Ồ, thế à!”, rồi ẵm đứa bé lên tay và nuôi đứa bé. Có những ngày mưa gió, bão bùng Ngài
vẫn phải đi xin sữa để nuôi. Trước đó Ngài rất được tôn kính, được xem như một vị Phật sống, giờ mất
hết uy tín. Môn đệ nhiều người trước đây kéo đến học đạo, tôn thờ Ngài, bây giờ quay lại chống đối. Trải
qua nhiều ngày, mẹ đứa bé thấy vậy không chịu đựng nổi việc xa con mình và việc đã vu oan cho một vị
Thiền sư nên đã thú nhận lại với cha mình về cha thật của đứa bé. Người cha nghe xong sửng sốt và sợ
hãi, chạy đến Thiền sư Bạch Ẩn van xin tha lỗi, khẩn cầu sám hối. Thiền sư Bạch Ẩn nghe xong cũng chỉ
nói: “Thế à!”, rồi gửi lại đứa bé một cách nhẹ nhàng. Khi sự thật đã được bày ra thì danh tiếng của Thiền
sư càng tăng hơn so với trước kia.
Hay trường hợp của Đức Phật bị ngoại đạo mắng chửi xối xả, đến mức Ngài A Nan chịu không nổi, xin
Phật đi nơi khác, nhưng Đức Phật vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra.
Nếu như không có một năng lực sống đạo mạnh mẽ bên trong, thì chúng ta có thể điềm nhiên mà “Thế
à!” trước hoàn cảnh cắc cớ như vậy được không? Không phải dễ. Điềm nhiên và “Thế à” như vậy thì có
phải là đã đạt được tâm bình thường một cách tuyệt đối chưa? Từ đó mới thấy rằng, đạt được tâm bình
thường tuyệt đối là đạt đạo. Đạo lý chân thật là trả lại một cuộc sống thực sự bình thường.
8/ Đạo vốn là cuộc sống thực sự bình thường.
Thường khi vào đầu các bộ kinh Đại thừa, Đức Phật phóng quang ngay giữa chặng mày, nếu ai ngay
thấy liền nhận thì Phật không phải nói thêm, ngay đó nhảy vào thì cùng Phật Tổ làm thầy, đó là ngay câu
thứ nhất liền nhận được. Còn chưa nhận được thì Phật phải nói ra nghĩa lý, chúng ta nương theo đó tu
hành, thể nhận được ý Phật, đó là ngay câu thứ hai mà thể nhận được, cũng có thể cùng Trời người làm
thầy. Tới khi nói ra nghĩa lý mà vẫn chưa nhận được ý chỉ tu hành thì Phật phải dạy cho các phương tiện
như là lập đàn tràng, đọc thần chú… để nhiếp tâm, đó là đợi đến câu thứ ba mới tiến được. Ngài Lâm Tế
nói: “Đợi đến câu thứ ba mới vào được thì tự cứu mình cũng không xong”. Nhưng riêng Kinh Kim Cang,
khi vào đầu kinh đức Phật không phóng quang, không làm cho mặt đất bị chấn động theo sáu cách, chỉ là
đến giờ ăn, Ngài đắp y, mang bát, đi vào thành Xá Vệ theo thứ lớp khất thực, khất thực xong trở về chỗ
của mình thọ thực, thọ thực xong thu xếp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi… Quý vị thấy Phật không làm một
cái gì kỳ đặc cả, chỉ là cuộc sống sinh hoạt rất bình thường, nhưng Phật cũng là Phật chứ không lẽ trong
cuộc sống bình thường Phật lại trở thành con người khác. Cho nên ngay trong cuộc sống sinh hoạt rất
bình thường ấy vẫn tràn đầy ánh sáng giác ngộ. Cụ thể khi đức Phật đi khất thực…, trong cái bình
thường đó, chúng ta dùng tâm nào để thấy Phật? Nếu quên mình mà nhìn theo tướng thì đó là mê, là
không thấy Phật thật được rồi. Nếu bằng tâm bình thường, lóng lặng, sáng biết để thấy, không thấy theo
cảnh bên ngoài, thì dù là tướng sáng hào quang hay tướng đi lại bình thường của đức Phật cũng đâu có
gì phân biệt sai khác? Ngay đó cái sáng biết thênh thang trùm khắp không động đang hiện ra đó. Đó là
chúng ta đã khéo ngay câu thứ nhất mà tiến vào rồi. Đó mới thật sự là không kẹt trên âm thanh sắc tướng
mà nhìn Phật, mới được thấy Phật thật. Nhìn được như vậy thì cái thấy chúng ta mới không đổi trên các
tướng, mới đạt đến tâm bình thường tuyệt đối, mới thấy đạo. Và mới thấy được đức Phật đã khai thị cho
chúng ta thấy rõ rằng, đạo lý chân thật rốt ráo cuối cùng là trở về ngay trong cuộc sống sinh hoạt bình
thường, phải ngay nơi cuộc sống bình thường ấy mà thể nhận. Cái bình thường đó khác với cái tầm
thường của chúng sanh còn mê lầm ở thế gian. Nếu như chúng ta không thấu rõ, chỉ nhận trên cái tướng
bình thường bên ngoài thì rất dễ bị lầm.
Ngài Linh Huấn ở dưới hội của Hòa thượng Quy Tông một thời gian, một hôm Ngài đến từ giã ra đi. Ngài
Quy Tông hỏi:
- Ông tính đi về đâu?
Ngài Linh Huấn thưa:
- Đi về Lãnh Trung.
Ngài Quy Tông nói:
- Ông ở đây đã nhiều năm, về sửa soạn hành lý xong, hãy đến đây, ta sẽ nói cho một câu Phật pháp cao
tột.
Ngài Linh Huấn về sắp xếp hành lý xong, đến trước Ngài Quy Tông. Ngài Quy Tông bảo:
- Hãy đến gần đây.
Ngài Linh Huấn tiến đến gần, Ngài Quy Tông bảo:
- Trời lạnh, đi đường hãy bảo trọng!
Nghe lời này, ngài Linh Huấn liền quên hết chỗ hiểu trước. Tức là bao nhiêu kiến giải trong đầu trước đó,
ngay đây liền sạch.
Nghe nói là sẽ có một câu Phật pháp rốt sau cao tột, thì trong lòng rất hy vọng sẽ được nghe một câu gì
đó cao siêu, kỳ đặc lắm. Nào ngờ khi tới thì chỉ nghe một câu rất bình thường, giản dị, không có vẻ gì là
Phật pháp cả. Nhưng khi nghe câu rất bình thường đó thì cái tâm "mong mỏi hy vọng nghe được một
câu cao siêu, kỳ đặc" kia liền mất, bao nhiêu chỗ hiểu trước đó cũng tan theo, trả lại cái thể tâm nguyên
vẹn từ thuở nào không một vật. Mới hay ra, cái cao tột, cái đạo lý rốt ráo vốn là cuộc sống hết sức bình
thường. Đi thì đến chào, chào thì dặn dò, chúc tụng, rồi thì vui vẻ ra đi, vậy thôi. Chỉ là trên các hành
động đó không một vết mê, đang sáng rỡ là được.
Cho nên Mã Tổ Đạo Nhất nói: “Nếu muốn hội thẳng đạo này thì tâm bình thường là đạo. Sao gọi là tâm
bình thường? Không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh.”
Không lấy thì phải bỏ, nhưng Ngài lại dạy không lấy cũng không bỏ. Không phải phàm thì phải là thánh,
nhưng Ngài lại nói không phàm cũng không thánh. Chúng ta làm sao hiểu? Ngay khi không có chỗ để
hiểu là tình thức ngưng bặt, thẳng đó nhận lấy thì đạo cả hiển hiện sáng ngời, còn tìm hiểu làm gì nữa!
Ngay khi không kẹt hai bên là đang sống bằng tâm bình thường, là đạo đang hiện tiền ra đó.
Hay là như Ngài Triệu Châu đến hỏi Ngài Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?”. Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm
bình thường là đạo”. Hoặc có một vị Tăng đến hỏi Thiền sư Viên Chiếu, Việt Nam: “Trúc biếc xanh xanh
trọn là chân như, vậy thế nào là dụng của chân như?” Thiền sư Viên Chiếu nói:
Tặng anh đi đường xa,
Cười trao một ấm trà.
Dụng của chân như nằm tại chỗ nào? Khi anh chuẩn bị lên đường đi xa, mình cũng tặng ấm trà và người
ta cũng tặng như thế. Vậy dụng ở chỗ nào? Khi đi liền cười nhẹ trao ấm trà, ngay trao liền biết nhận,
thẳng đó chưa sanh khởi thì có phải là chỉ có trao nhận ấm trà không thôi, hay đang trao nhận cái gì nữa?
Nếu khi trao và nhận ấm trà mà còn tình thức vọng động thì chưa thể lìa tướng, có cố lìa cũng chỉ là sự
đèn nén nhất thời và không lìa được, thì vẫn chưa khỏi nhằm trên tướng mà nhận, là nhận tướng trao
nhận chén trà thôi, chưa phải là đạo. Nếu quý vị nào khéo nhận thì ngay trên hành động đó, đạo vốn sáng
ngời, tràn trề không thiếu vắng.
Ngài Sùng Tín theo hầu Ngài Đạo Ngộ đã lâu mà chưa tỏ tâm yếu. Một hôm, ngài Sùng Tín thưa:
- Từ ngày con vào đây đến giờ chưa được Thầy chỉ dạy tâm yếu.
Ngài Đạo Ngộ bảo:
- Từ ngày ngươi vào đây, chưa có lúc nào ta không chỉ dạy ngươi tâm yếu.
Ngài Sùng Tín ngạc nhiên, hỏi:
- Thầy dạy con ở chỗ nào?
Ngài Đạo Ngộ nói:
- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui thì ta
gật đầu, chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu.
Ngài Sùng Tín cúi đầu lặng thinh giây lâu vẫn chưa nhận ra. Ngài Đạo Ngộ nói tiếp:
- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngài Sùng Tín ngay đó liền khai ngộ.
Có lần Ngài Kỉnh Huyền hỏi Thiền sư Duyên Quán:
- Thế nào là đạo tràng vô tướng?
Ngài Duyên Quán chỉ tượng Bồ Tát Quán Thế Âm ở đằng trước và nói:
- Cái này là do Ngô Xử Sĩ vẽ.
Ngô Xử Sĩ là một tay vẽ tuyệt vời hồi xưa. Kỉnh Huyền nghe nói như vậy liền suy nghĩ định thưa, Ngài
Duyên Quán nhanh nhẹn nói thêm:
- Cái này có tướng, cái kia không tướng.
Ngay đó, Sư liền tỉnh ngộ.
Vừa trầm ngâm suy nghĩ là có tướng sanh trong đầu liền. Ngài Duyên Quán nhanh nhẹn chỉ, Ngài Kỉnh
Huyền liền nhận ra, ngay trước khi chưa khởi nghĩ là đạo tràng vô tướng sẵn đủ nơi tâm mỗi người chúng
ta.
Cũng vậy, “ngươi dâng trà, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận, xá lui thì gật
đầu”, trong đó có suy nghĩ không?
(Còn tiếp)