BIẾT SỐNG TRONG VÔ THƯỜNG
Thích Đạt Ma Phổ Giác
CHẾT LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
Trời hửng nắng, ta trở dậy, mệt nhoài, như mới hôm qua ta còn khoẻ, nói chuyện tới khuya, giờ đây mình đã ngã bệnh chỉ sau một đêm. Bởi thế, nói đến vô thường ai cũng thấy buồn chán và ngán ngẩm làm sao; chỉ trong chớp mắt, trong khoảnh khắc, mọi việc đều đã thay đổi một cách nhanh chóng, mới thấy đó rồi mất đó, cuộc sống quá mong manh, tạm bợ. Vì vậy, vô thường có thể là một bài hát buồn đối với nhiều người. Có một câu chuyện nói về sự vô thường như sau:
Thấy một chú tiểu đang tưới cây, một người khách hỏi, “đã biết cuộc đời là vô thường, sao chú còn chăm sóc thứ ấy làm gì cho tốn công, vô ích?”
Chú tiểu đáp, “dạ xin thưa, nếu mọi vật đều là thường, thì đâu cần chúng con chăm sóc để làm gì?”
Bởi vô thường nên mọi hiện tượng, sự vật trên cõi đời này đều thay đổi, biến thiên theo thời gian. Mới hồi sáng thấy tinh thần sảng khoái, dễ chịu, trẻ trung yêu đời, muốn làm gì cũng được; ấy thế mà buổi chiều, mình lại xìu như bánh bao chiều, mệt mỏi, chán chường, thất vọng, lo âu, sợ hãi. Chính vì vậy mà Phật dạy, “cuộc đời là mộng huyễn”; còn chúng ta thì cho rằng, cuộc đời này vốn là thường còn mãi mãi.
Vậy xin hỏi hết tất cả mọi người, thế gian này có phải là mộng huyễn hay không? - Đời là một giấc mộng dài, là một đám sương mù, là một làn điện chớp, có đó rồi không đó, tích tắc rồi tan biến, nên Hoà thượng Trúc Lâm mới nói bài Mộng như sau:
Gá thân mộng, dạo cảnh mộng,
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng.
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng,
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng.
Đời người cũng vậy, và tất cả muôn loài vật cũng lại như thế. Vô thường là một lẽ thật chung cho tất cả thế gian, không phải của riêng ai, mọi người đều có quyền thấy biết, nhìn nhận như vậy, không phải của người này, mà cũng không phải của người kia. Bởi vô thường nên mọi sự vật có thể đổi thay, vì đổi thay nên ta mới khổ.
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ. Cũng từ vô thường, nên thân này mới có sinh-già-bệnh-chết, rồi yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được khổ, và sự thịnh suy của thân này cũng khổ. Do đó, Phật dạy, “cái gì có tướng là hư hoại”. Ta gọi chung cho mọi sự thay đổi, hư hoại đó là vô thường. Đức Phật dạy trong Kinh Kim Cang:
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như sương, cũng như chớp,
Phải nên quán như thế.
Như Lai Thế Tôn nhờ tu chứng dưới cội Bồ Đề nên Ngài thấy rõ ràng, từ con người cho đến muôn loài vật, như mặt trăng, mặt trời, trái đất, núi rừng, ao hồ, sông suối, hoa lá, cỏ cây…, đều phải theo một định luật chung muôn đời của vũ trụ, là phải thay đổi, không có cái gì đứng yên hay trường tồn mãi mãi trên thế gian này.
Ấy thế mà, vẫn có một số người quan niệm rằng, thế gian này thường còn mãi, nên mặc tình đắm say, lao vào vui chơi, hưởng thụ quá đáng, để rồi đánh mất đi nhân cách và phẩm chất làm người, nên ngày càng rơi vào hố sâu tội lỗi; hạng người này đáng thương hơn là đáng ghét. Chính vì vậy, hôm nay, chúng tôi xin chân thành chia sẻ pháp thoại “biết sống trong vô thường”.
Vậy vô thường có nghĩa là gì?
Thưa tất cả quý Phật tử, “vô” có nghĩa là không, “thường” nghĩa là thường có. Vô thường có nghĩa là không thường còn, không bền chắc lâu dài, dù nhỏ bé như hạt bụi, hoặc lớn như mặt trời, mặt trăng, cũng đều phải chịu sự chi phối thay đổi, tan rã, chuyển biến theo thời gian, hoặc chậm hay mau mà thôi. Vô thường tạm chia thành ba loại: Thân vô thường, tâm vô thường, hoàn cảnh vô thường.
Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thân vô thường xem nó như thế nào và chuyển biến ra sao.
Thân này từ đâu có? Theo lời Phật dạy, thân này muốn có được phải hội đủ ba điều kiện: phải có cha mẹ quan hệ với nhau, cùng kết hợp tinh cha với huyết mẹ và nghiệp thức của một chúng sinh, chung hợp lại thành bào thai, bào thai lớn lên nhờ sự nuôi dưỡng bằng máu huyết và hơi ấm của người mẹ, đến khi mở mắt chào đời, hít thở khí trời, bú sữa mẹ hay sữa hộp, rồi dần dần biết uống ăn và lớn khôn. Thân thể này sống được là nhờ bốn đại giữ gìn, cộng với uống ăn và hít thở khí trời mà sống còn.
Thân này sống được nhờ bốn đại bên trong kết hợp với bốn đại bên ngoài được đưa vào hằng ngày, như chất cứng gọi là đất, chất lỏng là nước, nhiệt độ trong người gọi là lửa, và sự hoạt động của thân là nhờ gió. Vì thế, sự hình thành của thân này là một chuỗi dài vay mượn liên tục. Nếu chúng ta thở ra mà không hít vào coi như chết. Vậy mà có người cho rằng, thân này thường còn mãi mãi; nhưng thực tế có phải vậy không? Chúng ta thử nhìn lại xem, trên đời này có ai trẻ mãi không già, khoẻ mạnh hoài không đau bệnh, sống hoài mà không chết. Chắc chắn là không! Tại sao vậy? Vì ai cũng phải chịu quy luật của sự vận hành già-bệnh-chết chi phối. Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn phải xả bỏ báo thân này khi Ngài 80 tuổi, huống hồ là chúng ta.
Quy luật vô thường già-bệnh-chết không hẹn cùng ai, giống như đoá hoa phù dung sớm nở, tối tàn. Phật dạy, muôn loài vật ở thế gian này đều vô thường để mỗi người chúng ta biết mà không quá chấp chặt, dính mắc vào xác thân này để làm khổ đau cho mình và người.
Đã chịu sự chi phối của vô thường thì thân này đâu có thật, do chúng ta lầm chấp thân này là ta, là tôi, là của tôi, từ đó sinh ra tham lam, ích kỷ, tìm cách vơ vét về cho riêng mình mà làm tổn hại người khác.
Đã làm người, ai có mặt trên cuộc đời này, không ít thì nhiều luôn bị bất hạnh, khổ đau bám víu vào thân phận con người. Cái mà tất cả mọi người đang lo sợ nhất chính là cái chết; vì thế, một số người cố tìm cách luyện thuật trường sanh bất tử để sống đời, nhưng có mấy ai được thoát chết bao giờ đâu?
Thuở Phật còn tại thế, có một thiếu nữ dáng vẻ mảnh khảnh, ốm yếu, nghèo khổ, sống tại thành Xá Vệ, tên là Kisa (có nghĩa là cô gái ốm yếu). Khi lớn lên, cô cũng có chồng như bao người con gái khác; nhưng bị mọi người bên chồng khinh khi, coi thường, vì cô thuộc giai cấp hạ liệt, thấp kém, ở đợ, làm mướn.
Từ khi đứa con trai đầu lòng ra đời, cuộc sống của cô bắt đầu thay đổi, cô được mọi người bên chồng đối xử tốt đẹp và quý mến hơn. Nhưng bất hạnh thay, chẳng được bao lâu, đứa con của cô qua đời vì cơn bạo bệnh. Đứa con chết làm người con gái ấy gần như điên loạn; dù đau khổ đến tột cùng, cô vẫn hy vọng sẽ có người cứu được đứa con của mình sống lại, nên ôm xác con đi tìm thầy cứu chữa.
Nhìn cảnh tượng thảm não, thất tha thất thểu lê từng bước chân để tìm thuốc cải tử hoàn sinh cho con mình, mọi người nhìn theo chỉ biết ngậm ngùi, thương tiếc; bởi việc cứu sống đứa trẻ là điều không thể được mà người con gái ấy vẫn nuôi hy vọng.
PHẬT CHỮA TÂM BỆNH
Có người vì quá xót thương, nên đã hướng dẫn cô đến gặp Như Lai Thế Tôn, mong nhờ đức Phật tế độ. Khi đến, cô tha thiết cầu xin Như Lai Thế Tôn cứu sống cho con mình. Biết được nhân duyên sâu xa, đức Phật liền hứa sẽ giúp cô cứu sống đứa trẻ. Nghe vậy, lòng cô dâng trào lên niềm hy vọng vô biên, cô nghĩ con mình chắc chắn được cứu sống.
Chờ cho nhân duyên đã chín mùi, đức Phật liền chỉ dạy, “này thiếu nữ, con hãy đến nhà nào chưa từng có người chết xin về đây cho ta vài hạt cải, ta sẽ cứu sống đứa bé cho con. Tin chắc rằng con mình sẽ được cứu sống nếu có được vài hạt cải trong một gia đình không có người chết, cô liền phấn khởi ra đi, trong lòng mừng thầm vô hạn. “Hạt cải nhà nào cũng có”, cô nghĩ như thế, nên sung sướng đến tột cùng, lòng tràn đầy hy vọng, vì trong chốc lát đây, con cô sẽ được cứu sống nhờ những hạt cải nhiệm mầu ấy.
Hạt cải thì nhà nào cũng có, nhưng tìm nó trong một gia đình không có người chết thì quả thật là không thể được. Bởi vì sao? Vì nhà nào cũng có người chết. Cô thất tha, thất thểu đi hết làng trên xóm dưới, từ làng này qua xóm nọ, cô đi khắp hang cùng hốc hẻm, nhưng không tìm ra một gia đình nào không có người chết như yêu cầu của Như Lai Thế Tôn.
Quá thất vọng và mệt mỏi, cô ngã quỵ bên lề đường, trên tay vẫn còn ôm chặt xác con của mình. Thế là bao nhiêu hy vọng không còn nữa. Cô nhìn con với lòng trìu mến, dù xác đứa bé đã cứng đờ. Lúc này, cảm giác rùng rợn cùng với sự thương tâm phủ đầy trong lòng cô; bỗng nhiên, tâm trí cô loé lên một tia sáng, cô hiểu rằng, trên đời này, ai rồi cũng sẽ chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, đau thương mất mát là một sự thật của kiếp người, yêu thương mà phải xa lìa đó là một nỗi khổ, niềm đau, có hợp phải có tan, đó là định luật nhân duyên quả của cuộc đời.
Trong sự đau khổ tột cùng, cô đã nhận ra, có sinh là có chết, ai rồi cũng phải lần lượt như vậy, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Từ nhận thức sáng suốt đó, cô không tìm hạt cải nữa, mà đem xác con mình vào rừng Thi Lâm (theo phong tục, tập quán Ấn Độ, xác người chết đem bỏ vào rừng cho thú ăn), rồi thanh thản trở về bạch Phật, “Kính bạch Thế Tôn, con đã tìm ra hạt cải của sự vô thường rồi, con đã đưa xác đứa bé bỏ vào rừng. Bây giờ con cảm thấy trong lòng thoải mái và nhẹ nhõm hơn”.
Nhân đó, đức Phật khai thị đạo lý duyên sinh trong cuộc sống cho cô nghe, “trên đời này, có sinh là có tử, yêu thương xa lìa khổ, không có cái gì là cố định cả, tuỳ theo nhân duyên, tuỳ theo điều kiện mà nó đổi thay sớm hay muộn mà thôi”.
Ngang đây, cô chứng được quả Dự Lưu, tức đã vào dòng Thánh, từ nay về sau không còn đoạ vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Sau đó, cô phát tâm xin đức Phật cho xuất gia làm Tỳ kheo ni; nhờ luôn siêng năng, tinh tấn tu hành, cuối cùng cô đã chứng quả A-La-Hán.
Khổ đau luôn bám víu thân phận con người, khổ đau về vật chất như thiếu cơm ăn, áo mặc, rồi đến cái khổ vì già-bệnh-chết, nên ngày xưa người ta hay cố gắng luyện thuật trường sinh bất tử để sống đời, nhưng có ai không chết bao giờ đâu?
Như ông Bành Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu.
Ngày xưa, người ta đồn rằng, ông Bành Tổ bên Trung Hoa do luyện được trường sinh bất tử, nên mạng sống được kéo dài đến 800 tuổi. Đó là truyền thuyết của thời xa xưa, nhưng trên thực tế thì hiếm thấy và ít có.
Trong nhà Phật không quan trọng sống lâu hay chết yểu, nếu sống 100 năm mà không làm gì được lợi ích cho ai, thì sống như vậy cũng không có giá trị gì về kiếp nhân sinh. Một ngày chúng ta có mặt trong cuộc đời là một ngày ta biết buông xả tham lam, sân hận, si mê, và sẵn sàng bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia khi có nhân duyên; thấy người khó khăn, thiếu thốn ta sẻ chia hay nâng đỡ, thấy người bệnh ta chăm sóc, hỏi han, động viên, an ủi... Khổ đau được chia ra làm hai phần:Khổ về thân, khổ về tinh thần.
Thân thì phải sinh-già-bệnh-chết nên khổ. Tâm thì yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được khổ. Chúng ta không thể diễn tả hết được nỗi khổ, niềm đau của kiếp người. Có thân là có khổ, không ít thì nhiều, ai cũng đều phải như vậy. Thế mà chúng ta ít có ai nghĩ đến điều này.
Khi mới sinh ra thì ta khóc, mọi người cười. Cái khổ trước tiên là người mẹ phải mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, đến ngày sinh nở trông cho mẹ tròn con vuông, đó cũng là một nỗi khổ, niềm đau.
Già thì da nhăn, mắt mờ, tai điếc, đi đứng khó khăn, đa số sống phải nhờ vào sự chăm sóc của con cháu; nếu thiếu tu thì phiền não, trách móc con cháu, nên nói già hay sanh tật là vậy đó.
Bệnh thì mình mẩy đau nhức ê ẩm, chân tay rã rời, nếu nhẹ thì còn tự chăm sóc được, nặng thì phải nhờ đến cháu con ,tốn tiền, hao của, mất công cho gia đình, người thân.
Chết là một nỗi ám ảnh lớn nhất của kiếp con người, ai cũng ham sống sợ chết; khi sống thì không làm những điều thiện lành, tốt đẹp, đến khi gần chết thì lo lắng, sợ hãi, không biết mình sẽ đi về đâu?
Rồi cho đến yêu thương mà xa lìa khổ. Nhờ sự giáo hoá tài tình của Như Lai Thế Tôn, người con gái ấy đã nhận ra chân lý cuộc đời, cô quyết lòng từ bỏ hết tất cả để trở về, quay trở lại với chính mình. Đây chính là pháp Thiền Hạt Cải mà xưa kia Như Lai Thế Tôn đã trao cho người con gái ấy.
Ngay tại đây và bây giờ, thân vật lý này vẫn còn hiện hữu nơi mọi người chúng ta. Học đạo lý năm xưa để ta tự chiêm nghiệm lại chính mình. Mất mát, đau thương, buồn tủi là một sự thật, hễ có được là có mất, sự ra đi của người thân luôn để lại cho ta nỗi nhớ, niềm thương, và cuộc đời vốn dĩ là như thế.
Cuối cùng, mỗi người chúng ta ai cũng phải đối diện với cái chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Chết là một nỗi ám ảnh lớn lao nhất đối với con người, nên nhiều người không dám nói đến từ này, họ nói thay từ chết bằng từ thọ, thậm chí khi đã tắt thở, mua hòm về nhà rồi vẫn còn gọi là cái hòm thọ ( tức cái hòm sống).
PHÁP THIỀN HẠT CẢI
Thế Tôn là bậc đại y vương, là vua của các thầy thuốc, nGài tuỳ theo bệnh mà cho thuốc, phương thuốc của Ngài rất nhiệm màu, đơn giản và hết sức thực tế. Nỗi khổ, niềm đau về sự yêu thương xa lìa khổ, mất mát, đau thương, buồn tủi, khiến cho thân tâm chúng ta mê muội, bằng mọi giá ta quyết giành lại sự sống, nhưng sự sanh ly, tử biệt là lẽ đương nhiên; hạt cải vốn là như vậy chứ không có tác dụng gì để đổi chết thành sống. Nhờ đi tìm hạt cải đã giúp cho người con gái nhận ra đạo lý vô thường của sự sống, cái chết có thể đến với tất cả mọi người bất cứ lúc nào, và không loại trừ một ai.
Sống trên cõi đời này, ai sáng suốt nhận ra được điều ấy gọi là giác ngộ, là thấy rõ sự thật của kiếp người. Sự mất mát, đau thương là lẽ đương nhiên, không có gì làm cho ta phải quá buồn khổ và đau lòng.
Con đường đi tìm hạt cải của người con gái ấy là một quá trình thiền quán về sự vô thường, bởi vô thường nên từ con người cho đến vạn vật đều biến thiên, thay đổi theo thời gian, không có gì là cố định cả. Chính nhờ nguyên lý vô thường, con người mới thay đổi và tiến bộ được; vì sự sống muôn màu, muôn vẻ, con người cần có ý chí mãnh liệt mới có thể vượt qua được cạm bẫy cuộc đời.
Do bị vô minh, mê muội che lấp, chúng ta chưa nhận chân được vô thường là gì, từ đó tham ái phát sinh, và khổ đau bắt đầu có mặt. Khi ta biết rõ thế gian này là vô thường, mình sẽ có cái nhìn sáng suốt và chín chắn hơn, mình không bi quan yếm thế, không chán nản, không thất vọng, để làm mình và người khổ đau. Chúng ta phải tự tin hơn nữa để làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời bằng sự ý thức làm lành, lánh dữ.
Nhờ thấu suốt được nguyên lý vô thường của vạn vật, chúng ta sẽ an nhiên, bất động trước mọi hoàn cảnh với vô vàn sự đổi thay. Mỗi người Phật tử chúng ta bắt chước làm theo sự chỉ dạy của đức Phật cho người con gái ấy, đi tìm hạt cải để trị tâm bệnh cho chính mình.
Chúng ta vẫn biết, hạt cải là vật vô tri không thể cải tử hoàn sinh, nhưng Như Lai Thế Tôn đã chỉ dạy cho người con gái ấy một pháp Thiền Hạt Cải, để rồi cuối cùng nàng nhận ra nguyên lý vô thường của kiếp người. Ngày nay, người Phật tử chân chính có cơ hội học tập và hành trì pháp Thiền Hạt Cải ấy. Tuy hạt cải không có giá trị cứu sống đứa bé, nhưng nó đã tác động đến tâm tư của người mẹ, giúp nàng nhận ra phép lạ của sự tỉnh thức về nỗi mất mát đau lòng đang diễn ra trong từng phút giây. Người con gái ấy đã thấy rõ, hạt cải chỉ là hạt cải, đứa bé chỉ là đứa bé, có duyên thì được sinh ra làm con, hết duyên thì trả về nguyên thuỷ của nó. Chết là một sự thật hiển nhiên không ai có thể chối cãi được.
Sự đến đi của một con người là do nghiệp lực thúc đẩy và chi phối, khi ta làm điều tốt lành thì được hưởng quả an vui, hạnh phúc, làm điều xấu ác thì phải chịu sa đoạ, khổ đau. Nó đến và đi là tuỳ theo duyên ngắn hay dài, chậm hay mau mà thôi. Do người con gái ấy lầm chấp mình là ta, rồi dẫn đến bám víu vào sở hữu của ta, là con ta, tài sản của ta, nên nàng mới phải khổ đau đến cùng tột như vậy.
Khổ đau lúc nào cũng có mặt, chỉ vì chúng ta là người phàm mắt thịt, nên không nhìn thấy hết nguyên nhân sâu xa của nó mà thôi. Do tham ái, luyến tiếc, bám víu, cho rằng cái gì cũng là thật có, từ đó chúng ta sinh tâm chấp giữ, bảo thủ, bám víu vào đó, khi được thì càng thêm tham, tham không được thì đau lòng, khốn khổ mà sinh ra hận thù, oán giận.
Mất mát, xa lìa là lẽ đương nhiên trong cuộc đời, vậy mà có người dám nói rằng, thà chịu khổ chớ không chịu lỗ. Sống một mình, vui vẻ, hạnh phúc không chịu, phải đi tìm người bạn đời để tâm sự, sẻ chia, cuối cùng đường ai nấy đi, dù có thương yêu cách mấy cũng không thể giúp được nhau trong giờ lúc sanh ly, tử biệt.
Bởi do chấp trước và bám víu vào thân này, nên chúng ta luôn sống trong đau khổ lầm mê, để rồi oán trời, trách đất sao quá bất công đối với con người. Người đời thì luôn tham muốn vô cùng tận, tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sanh ra buồn khổ, hận thù, tìm cách trả đũa. Trên thế gian, cái gì có được rồi cũng sẽ mất, không có cái gì bền chắc, lâu dài mãi mãi, thương yêu mà xa lìa là một nỗi khổ, niềm đau của kiếp con người.
KHỔ DO CHẤP CHẶT
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ; bị đoạ làm súc sanh, quỷ đói, chưa chắc là khổ, mà cái khổ lớn nhất của con người là vô minh, mê muội, không biết lối đi mới thật là khổ.
Những cái khổ thiếu ăn, thiếu mặc, đói rét, hay con trâu, con bò kéo cày, hoặc làm quỷ đói, cho đến khi trả hết nghiệp khổ thì cũng có ngày thoát ra khỏi; còn chúng ta sống trong vô minh mê lầm mà không biết lối đi, không biết được sự thật của cuộc đời mới là khổ.
Đã làm người, ai không một lần vấp ngã, nhưng khi vấp ngã chúng ta có chịu đứng lên hay không? Chúng ta vấp ngã ngay nơi đất, thì cũng từ nơi đất mà đứng lên. Đạo Phật không bắt buộc một ai phải đi theo mà chỉ hướng dẫn cho tất cả mọi người thấy biết đúng sự thật, tốt biết tốt, xấu biết xấu, còn làm được hay không là do sự quyết tâm của mỗi người. Chúng ta có quyền chọn lựa vì chính mình là thượng đế tối cao của chính mình, không ai có quyền chen vô hay ban phước, giáng họa cho ta. Đến chỗ này, chúng ta phải thầm nhận, tự nhận, không nên chần chừ nữa, mà hãy một phen chuyển mình để nhận ra tính biết sáng suốt ngay nơi thân này.
Phật dạy, ai cũng có chân tâm sáng suốt, tại sao chúng ta không chịu thừa nhận để rồi mình cứ mải mê chạy theo vui chơi, hưởng thụ dục tính, làm chính mình khổ luỵ ngày càng thêm chồng chất?
Vua Trần Thái Tông là một vị vua cư sĩ. Khi tu hành ngộ đạo, Ngài cảm thông cho kiếp người sao quá ngu si, khờ dại, nên sáng tác ra bài thơ như sau:
Lang thang làm kiếp phong trần mãi mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm đường.
Phật dạy, “ai cũng có tâm Phật, tâm sáng suốt, chỉ vì ta không chịu thừa nhận, nên phải chịu trôi lăn mãi trong lục đạo, luân hồi”. Ta là nam nhi đại trượng phu, Phật đã thoát ly sanh tử, còn ta dại gì mà đi lang thang mãi cho đến khi gối mỏi, chân dùn mà ngồi đó than thân, trách phận, chờ đến khi khát nước mới đào giếng thì làm sao hết khát được đây?
Vậy thành Phật là thành cái gì? Chúng ta phải nhận rõ chỗ này, thành Phật là thành cái tâm sáng suốt, thanh tịnh, chớ không phải thành cái thân năm,bảy chục ký lô này. Cái tâm sáng suốt, thanh tịnh ấy ngay nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.
Có một ông vua hỏi Thiền sư, “thành Phật là thành cái gì?”
Thiền sư đáp, “dám bảo bệ hạ đã quên”.
Chỉ một câu nói “dám bảo bệ hạ đã quên” đã làm nhà vua sáng tỏ, hài lòng. Do không nhận cái mình thực có, nên chúng ta đành cam chịu sống trong đau khổ, lầm mê.
Đạo Phật ra đời đã mở ra trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất trong lịch sử nhân loại, chưa từng có từ trước tới nay. Đạo phật đã chỉ cho chúng ta biết cách làm chủ bản thân, nhờ biết quay lại chính mình; mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền ban phước giáng họa cho ta; nên đạo Phật là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, là đạo của sự giác ngộ, giải thoát, là đạo của con người, vì con người, vì lợi ích của nhau, bằng trái tim hiểu biết trên tình thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
Phật là danh từ chung, không dành cho riêng ai như các quan niệm khác của thời xa xưa. Ai cũng có thể thành Phật được, nếu quyết tâm chịu bắt chước buông xả và tu tập như Ngài, thì chúng ta cũng sẽ thành Phật trong tương lai.
Sở dĩ, chúng ta không thành Phật và phải chịu khổ đau trong luân hồi sinh tử là vì mình không thừa nhận nhận mình có tính biết sáng suốt. Chỉ vì mình chẳng chịu thừa nhận chính mình có hạt châu vô giá ngay nơi thân này, mắt thấy sắc nhưng rõ ràng thường biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế, tại ta không chịu lấy ra xài mà thôi.
Điều đầu tiên đức Phật đã chỉ là biết khổ do chấp trước sai lầm, chấp là gốc của sự khổ đau; biết được khổ từ nguyên nhân chấp trước, bám víu, tham ái, nên chúng ta phải tìm cách chuyển hoá, buông xả cái khổ lớn nhất của con người là sợ chết, vì tham sống nên sợ chết.
Chúng ta luôn tham muốn thân này luôn sống đời mãi mãi, nên mọi người coi cái chết là việc cấm kỵ nhất. Do đó, khi gặp người thân thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau, chúng ta đều luôn cầu chúc cho nhau mạnh khoẻ, sống lâu, mà ta không biết phải gieo nhân nào để được sống thọ. Nhân sống thọ là không sát sinh, hại vật, bởi mạng sống từ con người cho đến muôn loài vật, ai cũng đều ham sống sợ chết, ta muốn sống thọ mà cứ giết hại hoài, thật “thất nhơn ác đức” làm sao! Vì sợ chết nên ai cũng tìm cách tránh né danh từ chết, và hình như từ chết đã ám ảnh con người thành nỗi sợ hãi lớn, thậm chí đến khi tuổi già, bệnh gần chết, khi mua hòm về vẫn nói là hòm thọ “tức là hòm sống.”
Cho nên, đã làm người trong trời đất thì trước sau gì ai cũng phải chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, dù là vua chúa hay người dân dã, bình thường. Do đó, với sanh thì mau lớn trong từng giây, phút như một em bé khi mở mắt chào đời, chỉ bằng cùm tay, ấy thế mà sẽ lớn lên với nhiều thay đổi; sanh cũng có nghĩa là sự sống đang tăng trưởng, thay đổi và phát triển.
Còn đối với già thì sao? Da nhăn, tóc bạc, mắt mờ, tai điếc, ăn uống, đi đứng khó khăn theo từng năm tháng, ai rồi cũng sẽ phải già.
Với bệnh thì thân thể tiều tụy, đau nhức hoành hành, làm ta đau khổ; sức khỏe dần hồi hao mòn, suy kém, làm cho ta tốn tiền, hao của.
Khi chết thì con người không còn cựa quậy, hoạt động như bình thường, mà nhắm mắt xuôi tay, co cứng, rồi rã rời, thối rửa.
Vì lẽ ấy, đức Phật mới nói với vua Ba Tư Nặc rằng, có bốn sự việc mà người thế gian không thoát khỏi được, đó là sinh-già-bệnh-chết.
Chứng minh cho lời Phật dạy là chân lý, đúng với lẽ thật thế gian là vô thường, chúng ta thường đau khổ khi có người thân qua đời, nhất là người đó đã từng nuôi nấng, thương yêu, chăm sóc, lo lắng cho ta được đầy đủ về mọi phương diện. Ngày nay, nếu chúng ta chịu khó theo dõi tin tức trên các phương tiện báo chí, chúng ta sẽ thấy, không biết bao nhiêu là cảnh sinh ly tử biệt luôn xảy ra hằng ngày, chết chóc do chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, sóng thần, động đất, tai nạn, già bệnh v.v…
Nào là khi mới sanh ra, chưa kêu tiếng khóc chào đời, hoặc mới chập chững biết đi đã xa lìa cha mẹ, mới ngày nào mẹ mẹ, con con, mà giờ đây không còn nữa; rồi tai nạn giao thông chết tức tưởi, làm con người trong phút chốc đã trở thành người thiên cổ. Những nỗi đau thương, mất mát luôn rình rập chúng ta trong từng giây, từng phút trên thế gian này. Hiện nay, tai nạn giao thông đã làm cho biết bao người đang khoẻ mạnh bị chết tức tửi, rồi bệnh tật tấn công, kẻ chết non, người chết bất đắc kỳ tử, cái chết không tha thứ bất kỳ một ai, không phải chúng ta sinh ra chờ đến già, bệnh mới chết.
Mọi người nên nhớ rằng, cái chết đến với chúng ta rất bất ngờ, không báo trước, không chờ đợi, không hẹn hò, không phải ai cũng đến già, bệnh rồi mới chết. Cái chết đến với chúng ta thiên hình vạn trạng không sao kể hết, người chết trẻ, kẻ chết già, người chết sông, kẻ chết suối, kẻ chết bụi, người chết bờ… người chết vì súng đạn, gươm đao, kẻ chết vì thiên tai, lũ lụt, người chết vì thiếu thốn, đói khát, lại có người vì uất hận, vì bức xúc mà quyên sinh, bức tử. Tóm lại, cái chết không ai có thể thoát khỏi và trốn được. Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy như sau:
Dầu trốn giữa hư không,
Ở biển khơi, núi rừng,
Không một nơi nào cả,
Trốn thoát được cái chết.
Thời đức Phật còn tại thế, có bốn vị ngoại đạo tu chứng được ngũ thông:
_ Thứ nhất là thiên nhãn thông, thấy được tất cả người và vật, dù có vật cản hay vật không cản, đều thấy rõ ràng, thông suốt.
_ Thứ hai là thiên nhĩ thông, nghe được tất cả âm thanh lớn, nhỏ dù gần, hay xa.
_ Thứ ba là tha tâm thông, biết được tâm ý người đó đang suy nghĩ gì và muốn làm gì.
_ Thứ tư là thần túc thông, biến hoá lớn nhỏ tuỳ ý, thăng thiên độn thổ, lên trời, xuống đất, tuỳ ý biến hoá vô ngại.
_ Thứ năm là túc mạng thông, nhớ được vô số kiếp về trước đang làm gì, ở đâu, và cuộc sống ra sao đều nhớ rõ giống như người nhớ chuyện ngày hôm qua vậy.
Bốn vị ngoại đạo này đều biết trước còn bảy ngày nữa là con quỷ vô thường đến đòi mạng, nên hợp lại cùng nhau bàn cách trốn tránh và đến trình với vua Ba Tư Nặc, qua bảy ngày sau sẽ trở lại thăm vua.
Vị thứ nhất dùng thần thông bay lên núp trên đám mây xanh, người thứ hai dùng thần thông chui sâu vào lòng núi, vị thứ ba dùng thần thông chui xuống biển sâu, vị thứ tư dùng thần thông chui vào lòng đất. Thế là bốn vị yên trí rằng, mình sẽ trốn được con quỷ vô thường và tin chắc là như vậy; nhưng đến giờ thần chết đến, vị trốn vào hư không từ mây rớt xuống nát thây, vị thứ hai bị đá đè bẹp dúm, vị thứ ba bị chết ngộp dưới nước, khi nổi lên bị sóng xô vào bờ, vị thứ tư ở trong lòng đất, bị đất sụp chôn vùi thân xác.
Đây là quy luật tất yếu từ ngàn xưa cho đến nay, dù có tu luyện đến mức độ nào như bốn vị ngoại đạo ấy, tuy chứng được ngũ thông, nhưng cũng không thể nào trốn tránh được cái chết. Do đó, sự ra đời của đạo Phật đã giúp ích cho nhân loại thấu suốt được nguyên lý vô thường, để mỗi người chúng ta tự tỉnh thức, đừng lầm chấp cái gì cũng là thường còn mãi mãi, để rồi gây thù, chuốt oán cho nhau, mà làm khổ đau cho nhân loại.
Từ quan niệm sai lầm đó, một số người cứ mãi đam mê, say đắm trong lạc thú trần gian, cố chấp bảo rằng, cuộc sống này là trường tồn mãi mãi, cho nên mặc tình gây tạo nhiều tội lỗi, đến khi phước hết, họa đến, ngồi đó mà than phân, trách phận, đổ thừa tại-bị-thì-là. Cũng nhờ vô thường đổi thay, nên chúng ta mới tu được; xưa là đồng hoang cỏ cháy, nay là mái chùa thân yêu thắm đượm tình người.
Nhờ vô thường mà mọi sự vật mới phát triển và đổi thay, nhờ vô thường mà chúng ta mới tu được; nếu mọi thứ đều cố định như quan niệm của thời xa xưa: trời chết sanh trời, người chết sanh người, thú vật chết sanh thú vật, thì chúng ta tu hành đâu có lợi ích gì?
Tâm tham-sân-si của con người cũng vô thường, nên chúng ta mới có thể thay đổi được; mình có thể chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ; không có một cái gì trên đời này mà cố định cả, tất cả mọi hiện tượng, sự vật là một dòng chuyển biến liên tục, thay đổi đến không thể ngờ.
Một Thiền sư Việt Nam sau khi ngộ đạo đã nói về thân này như sau:
Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ xuân tươi thu héo tàn,
Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi,
Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương đông.
Đời người dài lắm cũng đến trăm năm là cùng, như một giấc mộng dài, mới hôm nào ta còn bé nhỏ vui đùa, chạy nhảy hồn nhiên, nay đầu tóc đã bạc phơ, lưng còng, gối mỏi, chân dùn. Đời sống con người là như thế, mới qua thời tuổi trẻ mà giờ đây đã thấy già nua.
Còn vạn vật thì sao? Bốn mùa thay đổi, Xuân, Hạ, Thu, Đông, mới thấy cành hoa đẹp, giờ đã tàn. Thật đúng với câu “phù dung sớm nở tối tàn”. Cuộc đời là như vậy, luôn biến chuyển đổi thay, biết được như thế, chúng ta sẽ không còn bất an, sợ hãi trước bao nỗi thăng trầm của kiếp nhân sinh.
Có thịnh ắt có suy, có sinh ắt có tử, sống chết là lẽ đương nhiên, có gì phải lo, phải sợ, bởi thấy được như vậy, nên các vị Thiền sư luôn tự tại trước nỗi sống chết vô thường, “sanh như đắp chăn bông, tử như cởi áo hạ.” Sống chết là lẽ đương nhiên, là sự thường tình của thế gian, điều quan trọng là khi sống, ta làm được việc gì đó thật sự có lợi ích thiết thực cho nhân loại hay không.
Đây là điều thiết yếu quan trọng mà người con Phật cần suy nghĩ cho thấu đáo về cuộc sống của mình, ta luôn phải thăng hoa trên bước đường tu tập, mang lại niềm an vui, hạnh phúc cho mình và người. Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về sự vô thường của tâm.
(Còn tiếp)