logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 19/02/2014 lúc 07:10:46(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
UserPostedImage
Thảo mộc là một nguồn lương thực to lớn của loài người và các loại động vật trên địa cầu. Có những loại thảo mộc cung cấp thức ăn hằng ngày. Có loại thảo mộc cung cấp thức ăn xanh như rau cải. Có những loại thảo mộc cung cấp trái và hột. Có những loại thảo mộc cung cấp khoai củ.
Có những loại củ có sẵn trong thiên nhiên trong trạng thái hoang dã dưới lòng đất như củ nầng, củ chụp (hoài sơn, khoai mài vừa là thức ăn và vị thuốc), dưới nước như củ năn. Khoai lang, khoai mì (sắn), khoai mỡ, khoai từ, khoai tây, củ sắn (củ đậu) là những loại củ được loài người trồng để ăn hay nấu canh. Củ cải trắng, củ cà-rốt, củ cải ngựa (horseradish), củ wasabi, củ hành, củ tỏi, củ kiệu … được dùng trong nấu nướng hay biến chế thức ăn. Củ cải đường Beta vulgaris dùng để làm đường ở các quốc gia ôn đới không trồng mía được. Củ nưa Amorphophallus rivieri, gia đình: Araceae của khoai môn, khoai ráy độc khi còn tươi, nhưng ăn được sau khi nấu chín. Hoa cao trên 1m có mùi thây ma chết thối rửa nên được gọi là corpse flower (dựa vào cách gọi của người Indonesia bunga bungkai), devil tongie (lưỡi quỷ). Củ nưa rất to nên được gọi là elephant yam (khoai tượng). Nó được dùng để hạ sốt, trị ung nhọt, làm cho sản phụ sinh nhanh, hạ cholesterol, trị táo bón và chứng béo phì.
Củ gừng, riềng, nghệ, hột đậu khấu được dùng là hương liệu và làm thuốc. Một thời ở Âu Châu giá hương liệu rất cao nên nhiều người Âu Châu phải phiêu lưu dùng đường biển để tìm đường sang Á Châu để trực tiếp mua hương liệu không qua trung gian các thương nhân Ả Rập. Vào thời ấy hương liệu gồm có: đậu khấu (Elettaria cardamomum), hồ tiêu (Piper ngườirum), quế (Cinnamum burmanii), đinh hương (Suzygium aromaticum), riềng (Alpinia galanga), gừng (Zingiber officale), hồi hương (Illicium verum), nghệ (Curcuma longa) v.v… Các nhà thực vật học Tây Phương xem hoa gừng là hoàng hậu của các loài hoa.
Trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ đề cập đến hai loại củ: Loại củ ít người biết và loại củ hiếm quí.
Các loại củ ít người biết
1.Củ At-ti-sô Jerusalem
Gọi là At-ti-sô Jerusalem nhưng loại thảo mộc này không dính líu gì đến cây at-ti-sô (artichaut- artichoke) và thành Jerusalem ở Do Thái cả. Người Anh gọi là Jerusalem artichoke vì âm trại tiếng Ý Gerasola Articioco (Gerasola: hướng dương; articioco: at-ti-sô) có nghĩa là At-ti-sô hướng dương nên tên gọi thông thường của người Anh là Sunroot (Thái Dương Căn, tức hướng dương có củ), Sunflower artichoke (at-ti-sô hướng dương), earth apple (táo đất vì dưới dang củ).
Loại thảo mộc này cùng một gia đình với hoa hướng dương. Tên khoa học của At-ti-sô hướng dương hay thái dương căn là Helianthus tuberosus thuộc gia đình Compositae của hoa cúc. Theo nghĩa của tên khoa học Helianthus tuberosus thì đây là một loại hướng dương (helianthus) có củ (tuberosus). Loại hướng dương có củ giống như củ gừng hay riềng hơn là củ khoai. Nó được tìm thấy nhiều ở Hoa Kỳ, Canada và miền bắc Mễ Tây Cơ. Năm 1605 nhà thám hiểm Samuel Champlain đem giống từ Cape Cod về trồng ở Pháp. Cây cao từ 1-2m; lá giẹp, nhám, có lông mịn. Hoa giống như hoa hướng dương nhưng nhỏ hơn. Hoa màu vàng và có nhiều cánh như tia ánh sang mặt trời. Cây có củ ngọt và có nhiều Inulin C6n H10n 2O5n. Củ ngọt nhưng không có nhiều ca-lô-ri nên người bị bịnh tiểu đường có thể dùng được. Ở Âu Châu mỗi mẫu (10,000m2 bằng 100m x 100m) sản xuất từ 15-20 tấn củ. Ở Đức người ta cho củ at-ti-sô Jerusalem (thái dương căn) lên men để lam một loại rượu nổi tiếng: rượu Topinambur. Củ at-ti-sô Jerisalem còn được dùng để hạ đường trong máu, kích dục, nhuận trường, trị tê thấp.
2.Củ Yacon
Yacon là tên gọi của thổ dân Nam Mỹ dành cho một loại củ ngọt được tìm thấy nhiều dọc theo dãy núi Andes ở Nam Mỹ. Argentina, Bolivia, Peru, Ecuador… là những nơi có nhiều củ Yacon trong trạng thái thiên nhiên. Người Anh cũng gọi là Yacon hay Peuvian ground apple (táo đất Peru). Cây Yacon là một thân thuộc của hoa hướng dương. Cây cao từ 1-1.5m; lá hình tam giác, nhám; rìa lá có răng cưa. Thân cây yếu, dễ gẫy và phủ đầy lông trắng mịn. Hoa giống như hoa hướng dương nhưng nhỏ hơn. Hoa màu vàng, nhiều cánh nhỏ; nhụy hoa chính giữa rất to.
Tên khoa học của củ Yacon là Smallanthus sonchifolius hay Polymnia edulis hay Polymnia sonchifolia thuộc gia đình Compositae của hoa cúc. Từ xưa người Incas đã trồng Yacon để lấy củ ăn và làm thuốc. Củ Yacon dùng để làm tăng chất ngọt cho thức ăn, làm thạch, si-rô v.v. Cây có nhiều củ tựa như củ khoai lang ở nước ta nhưng rất ngọt và ít ca-lô-ri. Ngày nay Yacon được trồng nhiều ở Nhật, Taiwan, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân. Củ được ăn sống hay luộc. Củ giòn và có vị ngọt như củ sắn (củ đậu) khi ăn sống. Lá Yacon dùng làm trà uống trị bịnh về gan, thận, bàng quang nhiễm trùng. Lá Yacon có fructooligosaccharides rất ngọt nhưng ít ca-lô-ri nên người bị bịnh tiểu đường dùng dược để hạ lượng đường trong máu.
Lá có ác-xít protocatechuic, caffeic, chlorogenic kháng nấm, kháng viêm, kháng khuẩn.
Củ có frutose, sucrose, inulin C6n H10n 2O5n+1, tinh bột, sesquiterpene lactones kháng nấm và kháng khuẩn.
Ở Brazil người ta dùng củ Yacon để trị tiểu đường.
Ở Bolivia trà Yacon được dùng trị bịnh gan, thận, bàng quang. Trà Yacon rất nhuận tiểu.
Các loại củ hiếm quí
Các loại củ hiếm quí đa số đa số đều là những loại củ khó trồng, chậm tăng trưởng. Chúng dùng để làm thuốc hơn là để ăn. Loại củ hiếm quí, đắt tiền được nhân loại công nhận là củ sâm. Sâm quí là Sâm Cao Ly mọc ở vùng khí hậu băng giá thuộc dòng Panax và gia đình Araliaceae.
Ở Việt Nam có:
- sâm Bổ Chánh hay sâm Thổ Hào Hibiscus sagittifolius cùng dòng và cùng gia đình Malvaceae của bông bụt, phù dung, đậu bắp (okra). Củ được dùng để trị viêm phổi, khô cuống họng, khan tiếng, bạch đới, đau thắt lưng.
- sâm Nam hay sâm rừng, sâm đất, sâm Phú Yên Axia cochinchinensis thuộc gia đình Nyctaginaceae. Ở Việt Nam sâm đất nầy không được dùng trong y dược trị liệu. Lá có tính truy thai. Nhưng ở Tây Phi người ta dùng sâm đất để trị bịnh gan, thận, phong hủi, phong tỉnh, cước khi, tì thấp (gout), sốt, bại liệt.
- cây chân chim Vitis heptaphylla (07 lá) cũng được gọi là SÂM NAM vì thuộc gia đình Araliaceae của nhân sâm. Nhưng đây không phải là loại củ mà là một cây to cao đến 30m. Vỏ cây được dùng là thuốc. Do đó nó không được xem là củ sâm trong bài viết về các loại củ nầy.
- sâm Tam Thất Panax repens hay Panax japonicus (sâm Nhật Bản) có nhiều saponins, hợp chất panajaponin, ginsenosides C42 H72 O14. Nếu nấu chín củ ăn được. Sâm Tam Thất lợi phế, hạ sốt, trị đau bụng, xuất huyết, huyết tiện, thổ huyết, kinh nguyệt quá da, xơ động mạch, cao huyết áp, tiểu đường, béo phì (obesity). Người Anh gọi sâm Tam Thất hay sâm Nhật Bản là Japanese ginseng; Nhật: Chikusetsunijin. Chất chikusestusaponins trong sâm Tam Thất có khả năng trị chứng béo phì có kết quả tốt sau khi thí nghiệm vào chuột.
- sâm Ngọc Lĩnh, tên ngọn núi cao nhất cao nguyên Kontum, mang tên khoa học Panax Vietnamesensis. Theo các tài liệu của Việt Nam sâm nầy có nhiều saponins và bảo vệ gan rất tốt.
Ngoài ra trên thế giới có các loại sâm quí có tính trị liệu cao như:
1.Sâm Cao Ly
Sâm Cao Ly còn được gọi là nhân sâm (renshen) vì người ta cho rằng sâm có hình người có dược tính cao hơn sâm Cao Ly thường. Từ đó có tên gọi nhân sâm. Từ xưa các đạo sĩ Lão Giáo xem nhân sâm là linh dược. Càng chi tiết hơn khi người ta cho rằng sâm ở miền Bắc Cao Ly (Bắc Hàn bây giờ) có dược tính cao hơn sâm ở miền Nam (Nam Hàn). Có phải chăng vì Bắc Hàn lạnh và có nhiều núi non hơn Nam Hàn nghĩa là củ sâm mọc trong điều kiện thổ nhưỡng xấu , khí hậu khắc nghiệt bao nhiêu thì dược tính càng cao bấy nhiêu?
Tên khoa học của sâm Cao Ly là Panax ginseng thuộc gia đình Araliaceae. Người Anh gọi là ginseng. Củ sâm được dùng làm thuốc phải được ít nhất là 07 tuổi. Dược tính của nhân sâm là do ginsenosides C42 H72 O14 và phytoestrogens, kích thích tố trong thức ăn như sâm, đậu, hột… giúp cho phụ nữ dễ thụ thai.
Sâm Cao Ly gây phấn chấn thần kinh, tiết dịch kích thích tố, hạ đường trong máu, hạ cholesterol, trị bất lực sinh lý, ung thư dạ dày, ngừa ung thư v.v… Nó kháng viêm và tăng cường trí nhớ khi kết hợp với bạch quả.
Sâm Cao Ly đóng vai trò quan trọng trong kinh tế và ngoại thương của Bắc Hàn lẫn Nam Hàn. Việc xuất cảng nhân sâm, trà sâm, các sản phẩm chế biến từ sâm giúp cho hai miền Nam, Bắc Hàn có nguồn ngoại tệ đáng kể.
2.Sâm Hoa Kỳ
Khi tiếp xúc với người Trung Hoa thoạt tiên người Tây Phương không tin nhân sâm là linh dược như các đạo sĩ Lão Giáo đã tin. Nhưng họ bắt đầu để ý đến loại củ mọc ở miền núi non đầy tuyết trắng nhưng không bị hư thối này. Vào thế kỷ XVIII các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo khám phá ra sâm Hoa Kỳ. Các vùng núi cổ ở miền đông Hoa Kỳ trong các tiểu bang Pennsylvania, New York, Alabama, Tennessee… đều có sâm. Các Đông Y sĩ Trung Hoa công nhận dược tính cao của sâm Hoa Kỳ mà họ gọi là Tây Dương Sâm (Xiyangshen) hay Hoa Kỳ Sâm (huaquishen).
Tên khoa học của sâm Hoa Kỳ là Panax quiquefolius (5 lá chụm lại) thuộc gia đình Araliaceae. Người Anh gọi là American ginseng.
Sâm nầy có nhiều saponins và ginsenosides C42 H72 O14 nên được xem như có dươc tính cao hơn sâm Cao Ly mặc dù củ sâm Hoa Kỳ nhỏ.
3.Sâm Maca Peru
Ở Peru người ta gọi loại thảo mộc có củ cay nồng mang tên khoa học Lepidium gelidum, Lepidium peruvianum, Lepidium affinie, Lepidium weddelli thuộc gia đình Brassicaceae của cải mù tạt là củ Maca hay Maca- Maca nhưng người Anh gọi đó là Peruvian ginseng (sâm Peru căn cứ vào khả năng trị liệu quan trọng của nó hay pepper grass, pepper weed (hồ tiêu thảo vì vị cay nồng).
Đây là một loại củ ở Peru, Bolivia, Ecuador (Nam Mỹ). Từ xưa người Incas đã trồng củ Maca để ăn và để dùng làm thuốc. Cải trồng bằng hột và có củ thu hoạch được sau 09 tháng. Củ Maca tròn như củ sắn (củ đậu) được ăn tươi hay phơi khô rồi nướng ăn như ăn khoai lang nướng. Củ Maca hay sâm Peru có nhiều đường, protein, tinh bột, iodine, Fe. Về thành phần hóa học sâm Peru có nhiều saponins, alkaloids, sitosterol, stigmasterol, tannins, sinh tố C, B, B2, B12, E, amino ác xít. Đó là một loại VIAGRA thiên nhiên. Cách đây 2,000 năm người Incas dùng củ Maca tức sâm Peru để trị chứng bất lực sinh lý của đàn ông và vô tự của phụ nữ, loét dạ dày. Sâm Peru kích thích hệ thống miễn nhiễm, trị chứng mất hồng huyết cầu, ho lao, kích dục. Đó là thức ăn. Người ta cho sâm Peru lên men để làm thức uống Mica Chica.
Sâm Peru là một loại củ cải nhưng có giá trị trị liệu như sâm.
4.Sâm Suma Brazil
Củ Suma mang biệt danh Para tudo nghĩa là ‘tất cả’ hàm nghĩa trị bá bịnh. Vì lẽ đó người Anh gọi nó là Brasilian ginseng (sâm Brazil) mặc dù nó không thuộc gia đình Araliaceae của nhân sâm mà thuộc gia đình rau dền.
Tên khoa học của củ Suma (sâm Brazil) là Pfaffia paniculata, Hebanthe paniculata, Iresine eranthos thuộc gia đình Amaranthaceae của rau dền. Cây cao lối 80cm; lá dầy, khá to màu xanh sậm; hoa màu vàng. Củ giống như củ hoàng tinh.
Sâm Brazil hiện nay được các nhà khoa học Pháp, Nhật, Hoa Kỳ để ý và nghiên cứu. Các lực sĩ Nga dùng sâm nầy để bồi bổ sức khỏe. Sâm Brazil có hợp chất ecdysterone C27 H44 O7, beta- ecdysterone, allatoin C4 H6 N4 O3 tăng cường hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể, chống dị ứng, kháng viêm, kháng ung thư, trị bất lực sinh lý, chứng lãnh dục của phụ nữ (frigidity), ẩn ức sinh lý (libido), lở loét, xơ động mạch, tê thấp, mất hồng huyết cầu, yếu tim, vô tự. Sâm Brazil có Fe, Zn, Mg, sinh tố A, B1, B2, E, amino ác xít, ác xít panthotemic, ác xít pfaffic, saponins, glycosides, nortrierpene.
5.Sâm Tây Bá Lợi Á
Người Trung Hoa gọi sâm Tây Bá Lợi Á là wu jia chen (ngũ gia sâm) nhưng không công nhận nó là sâm như sâm Cao Ly sâm. Cây sam Tây Bá Lợi Á cao lớn đến cả thước. Nó có củ. Người ta dùng vỏ của thân cây và củ để làm thuốc. Cây có nhiều nhánh. Thân và nhánh đều có gai. Hoa màu vàng hay tím kết thành chùm hình táng dù. Trái màu đen. Củ màu hung đỏ nhăn nheo.
Sâm Tây Bá Lợi Á mới được các nhà khoa học Liên Sô khám phá. Tên khoa học của sâm này là Eleutherococcus semticosus thuộc gia đình Araliaceae. Người Anh gọi là devil’s root (quỷ căn vì hình dạng xấu xí của củ) hay lịch sự hơn là Siberian ginseng.
Sâm Tây Bá Lợi Á có eleutherosides được dùng như thuốc bổ thần kinh, trị lo âu, thất chí, tăng cường hệ thống miễn nhiễm, chống ung thư, chống lão hóa. Sâm Tây Bá Lợi Á bồi bổ Tỳ, Phế Thận.
6.Hoài sơn (Củ Mài, Sơn Dược, Củ Chụp)
Khoai mài hay củ mài, củ chụp, sơn dược là hoài sơn trong Đông Y. Đó là một loại dây có củ mọc sâu dưới đất. Củ to và dài vừa là thức ăn vừa là vị thuốc. Gọi là củ chụp vì người ta phải đào khoai bằng một cái chụp bằng tre. Đôi khi phải đào cả thước dưới đất mới có khoai. Dây khoai mài dài lối 10m; là hình tam giác giống như lá khoai mỡ. Hoa màu vàng- xanh; trái có 3 cạnh rộng và mỏng.
Tên khoa học của củ mài là Dioscorea perisimilis, Dioscorea pubescens (cỏ lông), Dioscorea oppositifolia (lá dối) thuộc gia đình Dioscoreaceae (1). Người Anh gọi là moutain yam (khoai yam núi tức khoai trong trạng thái hoang dại). loại khoai này được tìm thấy nhiều ở Hoa Nam, bán đảo Đông Dương, nhất là miền rừng núi ở Việt Nam. Nó là nguồn thức ăn thiên nhiên và là nguồn thuốc quan trọng trong Đông Y. Người Trung Hoa gọi là Shan Yu (Sơn Dược).
Thân và củ mài có protein, chất nhờn, allatoin, amino ác xít, chất béo, chất nhầy, saponins, dioscin, sapotoxins.
Hoài sơn chủ trị sốt, kiết lỵ, tiêu chảy, dạ dày bào bọt, nôn mửa, di tinh, mộng tinh, tiểu đường, hay đi tiểu đêm lắc nhắc, mồ hôi trộm ban đêm, viêm ruột, đau thắt lưng.
7.Khoai Yam rừng (Tỳ giải)
Tỳ giải là một loại khoai Yam rừng. Người Trung Hoa gọi là Shan bei xie (sơn bắc tạ). Đây là một loại dây có thân cứng; lá hình trái tim; hoa màu trắng- vàng nhạt mọc trên một cuống dài. Loại khoai này được tìm thấy nhiều ở Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên, Taiwan (Đài Loan).
Tên khoa học của tỳ giải là Dioscorea tokoro thuộc gia đình Dioscoreaceae. Người Anh gọi là Wild yam. Củ khoai tươi có độc chất. Phơi khô và luộc chín độc chất biến mất. Khoai có vị như khoai lang.
Cọng dây khoai có steroid saponosides. Thân, lá và củ có dioscin, diosgenin C27 H42 O3, yokonin, aglycone, tokonin, kosagenin.
Ở Việt Nam tỳ giải được dùng để trị đau khớp xương.
Tây Y ngày nay dùng tỳ giải để sản xuất steroid và progesterone.
Công dụng trị liệu của tỳ giải: trị tê thấp, ho, suyễn, ngừa thai, bịnh bộ phận sinh dục, viêm tuyến tiền liệt, chống đông máu.
8.Củ nâu
Tên khoa học của củ nâu là Dioscorea cirrhosa, Dioscorea matsuda, Dioscorea rhipogonoides thuộc gia đình Dioscoreaceae. Người Anh gọi là Dyeing yam (khoai yam nhuộm); Trung Hoa: Shu liang, yuan bian zhong; Lao: kabau.
Củ nâu được tìm thấy nhiều ở Nhật, Trung Hoa, Đài Loan, Việt Nam, Lào, Phi Luật Tân v.v…
Dây cứng; lá hình trái tim; gân lá chìm. Hoa màu vàng- xanh. Củ giống như củ khoai mỡ màu hung đỏ ngoài vỏ, ruột màu nâu. Củ tươi có chất độc. Luộc chín ăn được nhưng hơi chát vì có nhiều tannins. Củ nâu còn có nhiều phenols, steroidals saponins có tính ngừa thai. Tannis dùng trong ngành nhuộm vải, lụa, lưới cá. Hoạt chất của củ nâu làm hạ huyết áp (thí nghiệm vào chuột).
Tannins còn được dùng để trị kiết lỵ, tiêu chảy. Củ nâu còn được dùng là thuốc trị bướu, ung thư. Trung Hoa có nhiều kinh nghiệm trong việc dùng củ nâu trong trị liệu.
Các loại củ thuộc gia đình Araliaceae của nhân sâm và Dioscoreaceae của khoai yam được xem là hiếm quí. Chúng cung cấp cho loài người nguồn thức ăn và nguồn dược thảo quan trọng. Dược tính của nhân sâm hay hoài sơn thiên nhiên rất cao. Sâm hay hoài sơn đều được trồng bằng cách vung phân tưới nước đầy đủ để chóng tăng trưởng và chóng gia tăng trọng lượng mặc dù tuổi chưa cao liệu dược tính có bị ảnh hưởng gì không?
Việc tìm kiếm dược thảo trong trạng thái hoang dã như ngày xưa không còn dễ dàng nữa. Việc thuần hóa và gây giống dược thảo đại quy mô vừa tốn nhiều đất đai và có thể làm giảm dược tính của dược thảo như vừa nói những vẫn được tiến hành song song với việc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và việc sản xuất của các công ty dực phẩm để có đủ thuốc men chữa trị bịnh cho loài người. Khoa học và kỹ thuật của loài người có những tiến bộ vượt bực so với thế kỷ trước. Nạn đói giảm. Tuổi thọ trung bình của loài người tăng cao. Bịnh tật cũng tăng. Vi trùng gây bịnh tật cũng tiến bộ để thách thức với những tiến bộ của loài người. Xem ra loài người thêm lo âu và thử thách hơn là tìm ra chân hạnh phúc của cuộc sống.
Phạm Đình Lân, F.A.B.I

____________________
Chú thích
(1) Tên của nhà thực vật học Hy Lạp Pedanius Dioscorides (40-90).
Hầu hết những chi tiết trong bài viết này được trích từ Thế Giới Thảo Mộc Tự Điển của tác giả Phạm Đình Lân tức David Lan Pham, Hội Viên Nhà Cố Vấn Quốc Tế Học Viện Tiểu Sử Hoa Kỳ.
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.129 giây.