Ai cũng biết rằng tài năng có hai thành phần khác nhau: một là thiên phú, hai là luyện tập. Tuy nhiên, “thiên phú’ là một khái niệm khá trừu tượng, không ai đo lường được rõ ràng. Trái lại, luyện tập là một quá trình có thể ghi chép và phân tích: cách tập, thời gian tập, bài bản tập.... Hơn nữa, có lẽ không ai trong chúng ta không nghĩ rằng luyện tập là cần thiết cho tất cả loại tài năng, từ học vấn, thể thao đến nghệ thuật.
Năm 2008, cuốn sách bán rất chạy của Malcolm Gladwell là Outliers (Khác Biệt) nói rằng muốn xuất sắc hơn người thì phải trải qua 10 ngàn giờ luyện tập. Luật 10 ngàn giờ này là từ phát hiện của nhà tâm lý học K. Anders Ericsson rằng luyện tập góp phần cho 80% sự khác biệt giữa những người xuất sắc nhất trong một lãnh vực so với những người khác.
Mới đây, một nghiên cứu của Brooke Macnamara, David Hambrick, và Frederick Oswald xem xét 88 nghiên cứu khác về liên quan giữa luyện tập và hiệu suất/tài năng. Kết luận của họ: luyện tập không đem lại kết quả nhiều như Ericsson Gladwell dự đoán, và kết quả này cũng thay đổi rất nhiều tùy theo lãnh vực.
Ví dụ, trong những kỹ năng như chơi cờ, tập luyện ảnh hưởng đến tài năng khoảng 26%, trong âm nhạc khoảng 21%, trong thể thao khoảng 18%, nhưng trong những ngành như luật và y khoa thì chỉ ảnh hưởng ít hơn 1%.
Ba tác giả của cuộc nghiên cứu cũng kết luận rằng khi những người tham dự nghiên cứu phải ghi chép rõ ràng thời gian tập luyện, thì ảnh hưởng của tập luyện giảm so với những cuộc nghiên cứu khác khi người tham gia báo cáo thời gian luyện tập theo như họ nhớ, tức là không chính xác cho lắm.
Như thế, có thể nói luyện tập là điều kiện cần để phát triển tài năng, nhưng không phải là điều kiện đủ, vì điều kiện khác là tài năng thiên phú. Chỉ riêng phần thiên phú dường như cũng không hoàn toàn đủ nếu không có thêm phần luyện tập.
Cho dù chúng ta có thể đồng ý với điểm trên, câu hỏi còn lại là phần đóng góp của mỗi thành phần, bên nào quan trọng hơn? Câu hỏi này đã có nhiều người tìm cách trả lời qua nhiều nghiên cứu khác nhau, nhưng rõ ràng câu trả lời đúng không dễ gì tìm ra, hoặc có sức thuyết phục với đa số chuyên gia.
Nhìn rộng ra, sự cân bằng giữa thiên phú và luyện tập tương tự như cuộc bàn cãi không dứt và chưa ngã ngũ là sự quan trọng của bẩm sinh và giáo dục. Một đứa trẻ, trong quá trình lớn lên, chịu bao nhiêu tỷ lệ của ảnh hưởng của di truyền và ảnh hưởng của môi trường và giáo dục? Ảnh hưởng của giáo dục đã được xác mình qua những nghiên cứu về những cặp trẻ song sinh cùng trứng, tức là di truyền giống hệt, khi được nuôi dạy ở hai môi trường khác nhau. Ngay cả khi họ cùng được nuôi dạy trong một gia đình, họ cũng không hoàn toàn giống nhau, vì những dị biệt khác trong kinh nghiệm sống, tức vẫn là ảnh hưởng của môi trường.
Nếu ảnh hưởng của môi trường/giáo dục đã được chấp nhận khá hoàn toàn, ảnh hưởng của di truyền là một lãnh vực khá tế nhị và khó kết luận hơn, ít nhất ở mức tiến bộ y khoa hiện nay. Ảnh hưởng về tính chất và tài năng của di truyền không phải lúc nào cũng lộ ra, và ít người muốn ước đoán, nhất là trong trường hợp ảnh hưởng xấu.
Ví dụ, con cái của cha mẹ là kẻ giết người trong loại rối loạn nhân cách (psychopathy hoặc sociopathy) sẽ có bao nhiêu tỷ lệ và khả năng cũng bị rối loạn nhân cách, hoặc cũng sẽ trở thành kẻ sát nhân? Cho dù có nghi ngại, sẽ không có ai, chuyên gia, pháp luật cũng như người thường, thẳng thắn đề cập đến việc ấy, vì nghi ngại ấy chưa có căn bản khoa học rõ ràng, và như thế nó mang tính kỳ thị.
Ngay khi nhắc đến ảnh hưởng của môi trường lẫn di truyền, cũng không ai có thể kết luận hoặc suy đoán chắc chắn kết quả của của ảnh hưởng ấy. Ví dụ, tâm lý, xã hội học thường cho rằng những bé trai lớn lên trong một gia đình cha hay đánh đập vợ con cũng trở thành người đánh đập vợ con sau này, nhưng thực tế chứng mình rằng không phải tất cả những đứa trẻ này đều lớn lên thành người đánh đập vợ con.
Nhìn theo một khía cạnh nào đó, không thể kết luận chính xác ảnh hưởng của những yếu tố bẩm sinh/thiên phú và tập luyện/giáo dục chính là những điều gìn giữ tính độc đáo riêng biệt của mỗi cá nhân cũng như tính đa dạng của loài người.
Tiểu Thư