Ánh minh họa chụp tại Geyleng, Singapore.
Những Mảnh Đời Lang Bạt Ở Bình Dương“Những Mảnh Đời Lang Bạt Ở Bình Dương” là tựa của một bài phóng sự, đọc được qua RFA, do nhóm phóng viên Việt Nam thực hiện:
“Họ là những người tứ xứ lang bạt về Bình Dương để kiếm sống. Có người làm thuê đủ các công việc để kiếm cơm độ nhật, có người đi buôn rau hành dạo, trái cậy dạo, cũng có người đạp con ngựa sắt cũ kĩ dong ruổi khắp thị thành, ngoại ô để mua ve chai, đồng nát… Cuộc sống của họ khó khăn, bấp bênh, không có ngày mai. Và họ cũng chẳng biết bám víu vào đâu ngoài chút sức tàn lực kiệt lúc tuổi già.
Ông Hoan, một người quê gốc Thái Bình, di cư vào miền Nam sau năm 1975 kể với chúng tôi rằng ông di cư không theo diện nào cả, chỉ đơn thuần lúc đó miền Bắc quê hương của ông nghèo khổ quá, quanh năm suốt tháng chẳng biết làm gì ngoài mấy đám ruộng nhỏ, vài bao lúa mỗi năm cộng với vài chục ký sắn mỗi năm, không tài nào sống nổi, ông khăn gói lên đường hành phương Nam với hy vọng đổi đời...
Vào đất Bình Dương hai chục năm nay, ông đạt được chút thành tựu là nuôi hai đứa con học lên tới đại học, còn lại, hầu như ông chẳng có gì, nhà cũng ở thuê, xe máy không có, bà con ruột thịt không có nốt ở xứ sở xa lạ này. Gần 80 tuổi, ông Hoan vẫn luôn đối diện với nguy cơ đói khổ, bị đuổi ra khỏi phòng trọ nếu như không kiếm đủ tiền trả thuê phòng...
Đồng số phận với ông Hoan, Bà Nga, trôi dạt từ Bến Tre lên thành phố Sài Gòn với nghề bán vé số, rửa chén bát thuê, làm việc phụ giúp ở các quán và giặt giũ thuê. Những công việc này chỉ đủ giúp bà mua gạo, muối, thức ăn cho gia đình hằng ngay. Một thân nuôi ba người con nhỏ, chồng bỏ đi. Cuộc đời bà nghèo khổ, chật vật mãi cho đến khi con bà trưởng thành, đi làm công nhân, bà vẫn chưa hết khổ, vẫn phải đi bán vé số kiếm sống qua ngày.
Ngoài bà Hoa và ông Hoan, còn rất nhiều người, nhiều mảnh đời trắc ẩn, bể khổ đang lang bạt khắp Bình Dương nói riêng và khắp các thành phố trên cả nước nói chung. Mặc dù họ vẫn rất siêng năng, chăm chỉ làm ăn, cố vượt thoát cái nghèo nhưng không tài nào thoát được bởi cơ chế nhà nước đã đẩy họ đi từ khốn khổ này sang khốn khổ khác...
Cứ như thế, chuyến đi của chúng tôi gặp từ người nghèo này sang người khốn khổ khác, một hành trình dài toàn những mảnh đời lang bạt, không tấc đất cắm dùi và gặp nhiều tai bay vạ gió. Và tất cả câu chuyện của họ đầu có liên quan đến chính sách quản lý nhà nước từ nhà đất cho đến giải tỏa, đền bù cũng như thuế và chính sách trợ giúp người nghèo đầy tính bất minh.”
Những Cánh Bèo Trôi Ở GeylengCó lẽ vì không phải là ký giả, phóng viên, nhà văn hay nhà báo gì ráo trọi (giới người thường chỉ nhìn thấy mặt trái của cuộc đời) nên chuyến đi của tôi – xem ra – lạc quan và vui vẻ hơn nhiều. Ớ Geyleng tôi cũng gặp những người Việt không tấc đất cắm dùi, những mảnh đời lang bạt, những kẻ cũng “bị cơ chế nhà nước đẩy đi từ khốn khổ này sang khốn khổ khác” nhưng (cuối cùng) họ đã tìm ra sinh lộ – dù chưa biết là chuyện mưu sinh (rồi ra) sẽ kéo dài được bao lâu?
Geyleng là một con lộ dài, cắt ngang bởi vài chục con hẻm lớn, ở Singapore. Nó được mệnh danh là Phố Đèn Đỏ Quốc Tế, với hàng ngàn người hành nghề bán dâm thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Riêng hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) hiện nay thì gần như là giang sơn của những cô gái Việt.
Đúng cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhận xét: “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Họ tươi tắn và xinh xắn nếu không hơn thì cũng chả hề kém các bạn đồng nghiệp Thái, Phi, Tầu, Nhật, Đại Hàn ... đang biệt cư ở những con hẻm khác. Các cháu không chỉ là một “món hàng” mới lạ đối với người ngoại quốc mà giá cả, xem ra, cũng nhẹ nhàng hơn.
Ở Geyleng (chắc) không ai ngủ. Đường phố tấp nập ngày đêm. Giữa đám người đang chen chúc hưởng thụ hay mưu sinh trong những quán ăn lộ thiên, rực rỡ ánh đèn nơi khu phố đèn đỏ này, tôi chợt nhận ra những người phụ nữ Việt Nam (qua những chiếc áo bà ba sờn cũ) đang đi loanh quanh chào mời thực khách mua giấy chùi miệng.
Họ chào hàng bằng tay, bằng ánh mắt van nài, cùng với nụ cười rất hiền lành và hơi buồn bã. Tôi không dấu được sự ngạc nhiên:
Chị người Việt Nam phải hông?
Chú cũng người Việt luôn sao?
Dạ.
Chèn ơi, vậy mà tui tưởng người Sing.
Chú mua dùm mấy tệp khăn giấy này nha. Có một đô la thôi hà.
Được chớ mà chị ngồi chơi nói chuyện chút xíu cho vui đi. Gấp gáp khỉ gì. Chị dùng chi tui kêu luôn?
Chú cho uống được rồi, tui mỏi chân và khát nước quá. Đi từ hồi bốn giờ chiều tới giờ đó.
Vậy thì ăn luôn đi.
Dạ, cũng được.
Rồi mấy giờ chị mới về nhà? Gần sáng tới nơi rồi.
Phải đi tới cỡ tám giờ mới đủ sở hụi.
Sở hụi gì cà? Chị bán mấy cái tệp giấy này có vốn liếng gì bao nhiêu đâu, không bán nay thì mai chớ hư hỏng lỗ lã gì mà sợ.
Tui mua một bịch hai chục tệp giá năm đô, bán hết cả bịch thì lời được 15 đồng.
Mỗi ngày chị bán mấy bịch?
Cũng còn tùy. Bữa nào khoẻ, chịu khó đi, chịu khó mời thì được ba bịch, còn không thì hai. Có bữa hên bán một bịch thôi cũng đủ tiền rồi.
Sao kỳ vậy?
Nhiều người khách họ chỉ lấy một tệp giấy thôi, lấy cho mình thấy đỡ kỳ vậy mà nhưng cho tới năm sáu đô la lận. Họ cũng thường cho ăn luôn nữa. Nhiều người tử tế và vui vẻ lắm nhưng ngặt là mình không biết tiếng nên cúi đầu ăn thôi, chớ có biết nói chuyện gì đâu.
Tôi tính nhẩm một đô la của Singpore tương đương với 80 xu của Mỹ nên suy ra là bà đồng hương này cũng kiếm được từ 30 đến 50 Mỹ Kim mỗi ngày.
Như vậy bữa nào hên là chị về sớm, ngủ khoẻ re há?
Ý đâu có được chú. Ngày hên cũng phải ráng đi để bù ngày xui chớ. Với lại tui ở “ghép” với bà Ba. Phải để bả ngủ cho đủ giấc. Khi nào tui về chui vô ngủ là đến phiên bả đi bán. Ghép như vậy mà một ngày cũng phải trả 12 đô tiền nhà lận đó.
Tôi chưa kịp hiểu sự khác biệt giữa chuyện “ghép phòng” và “ghép giường” nhưng chưa kịp hỏi kỹ thì đã có thêm người nhập cuộc:
Út à, ngồi chơi mảy. Chú này là “người mình” chớ không phải Sing đâu nha.
Vậy hả. Con chào chú.
Chú chào em, ngồi nghỉ chút đi. Ăn gì chú kêu luôn nha.
Dạ, con thích ăn cháo cá.
Người mới đến trẻ hơn nhiều (chắc mới ngoài bốn mươi) trông cũng tươm tất hơn hẳn dù trên người vẫn chỉ mong manh có mỗi chiếc áo bà ba và cái quần đen quê mùa giản dị, như cách phục sức thường thấy ở những phụ nữ Việt Nam ở quê nhà. Chỉ vài phút sau, lại thêm một “người mình” nữa hồn nhiên ngồi vào bàn góp chuyện:
Chèn ơi, ở đây gần tháng rồi tui mới thấy có chú là người Việt ở Thành Phố qua chơi đó nha. Còn toàn là tụi nhỏ làm gái, với đám bà già tụi tui không hà.
Không phải ở Thành Phố đâu. Ổng là Việt Kiều ở tuốt luốt bên Mỹ lận.
Ủy Trời, xa dữ thần vậy sao?
Tha hương ngộ cố tri. Câu chuyện của chúng tôi dù rất lan man nhưng đều nổ ròn như bắp. Tôi không có gì để nói nhiều nên chỉ ngồi nghe, và được nghe về một phương cách mưu sinh của đồng bào mình nơi đất lạ.
Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở – trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn ngàn Mỹ Kim.
Đây là một số tiền lớn lao ngoài sự ước mơ của rất nhiều người dân Việt. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến “thần tình” khi mà nước Việt không còn đủ chỗ chen chân cho những người bị đẩy đến bước đường cùng – mỗi lúc một đông – như tường trình của thông tín viên RFA:
“Chỉ riêng thành phố Sài Gòn, lượng người bán vé số đông lên cả vài ngàn người, họ đến từ thập phương, cũng có người xuất thân là công nhân nhà máy, xí nghiệp, vì tai nạn lao động hoặc vì mất sức lao động, bệnh tật, phải nghỉ việc và chuyển sang bán vé số kiếm cơm độ nhật. Ngồi quán cà phê vỉa hè 58 – Trần Quốc Thảo, quận 1, trong vòng nửa giờ đồng hồ, đã đếm được 16 người bán vé số đến mời, già có, trẻ có, bệnh tật có, nhưng xót xa nhất vẫn là những em bé tuổi chưa đầy 15, học hành dở dang hoặc vừa đi học vừa bán vé số kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.”
Singapre một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm ($53,000) cao nhất nhì thế giới. Người dân bản xứ không ai phải đi bán hàng rong hoặc đi xin ăn. Họ không chỉ giầu có, hào phóng mà còn vô cùng cởi mở nữa. Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.
Thực khách ở Singapore không ai cần đến giấy chùi miệng nhưng họ vẫn sẵn sàng chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua một hình thức mua bán (tương đối) lịch sự và tế nhị. Thiệt là một vùng đất láng giềng bao dung, và trù phú, nơi lý tưởng cho những mảnh đời cùng quẫn và lang bạt đến tự xứ mình.
Khi còn tại chức, ông Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc...” Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 vừa qua) cũng phát biểu gần tương tự:“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”
Trong số những “cường quốc” và “bạn bè quốc tế ngưỡng mộ” này (hẳn) không có người dân ở Singapore đâu. Xin mọi người cứ yên tâm, và đừng ai cảm thấy bị tự ái (vặt) làm chi cho má nó khi.
Theo lời một vị lãnh đạo cao cấp khác, (ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng) thì chuyện “xây dựng CNXH còn lâu dài lắm.” Nghĩa là sẽ còn nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng để bán thân, hay bán giấy – nếu họ vẫn còn có thể tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.
Kính chúc các chị, các em, các cháu luôn buôn may và bán đắt.
Tưởng Năng Tiến, viết từ California (RFA)