C. "Tình Thiên Thu" dùng lối kể chuyện thuần túy và vần điệu thơ triệt để để diễn tả ý tưởng truyền cảm và hữu hiệu:Như đã trình bày trên, việc xác nhận thể loại ballad cho "Tỉnh Thiên Thu" đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá trị bài hát và hiểu cách thức diễn tả ý tưởng. Có hai khía cạnh quan trọng trong cách thức diễn tả ý tưởng trong "Tỉnh Thiên Thu": Lối dùng "kể" và vần điệu.
Toàn bài hát dùng lối "kể" để diễn tả ý tưởng và hầu như không dùng kỹ thuật "cho thấy":
Trong các bài trước, tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của hai kỹ thuật trong nghệ thuật viết: "Cho thấy, đừng kể" và "Chú trọng vào chi tiết cụ thể." Tôi cũng trình bày rằng các kỹ thuật này cũng nên dùng cẩn thận tùy vào trường hợp.
Kỹ thuật "Cho thấy, đừng kể" làm cảnh tượng, nhân vật, ý tưởng sống động và lôi cuốn vì nó khiến khán giả tham gia vào câu chuyện. Bất lợi của kỹ thuật này là câu chuyện hoặc cảnh tượng có thể trở nên dài dòng và khán giả có thể mệt mỏi vì phải vận dụng trí óc để phối hợp các chi tiết đặc thù. Ngược lại, "kể" có lợi điểm là ngắn gọn, cho ̣khán giả một kết luận về cảnh tượng hoặc nhân vật một cách lẹ làng.
Thí dụ bạn đang muốn kể một tai nạn xe cộ. Với lối kể thuần túy, bạn có thể viết, "Hai chiếc xe tông nhau dữ dội trên xa lộ làm cản trở lưu thông, xe cộ bị kẹt cứng." Với kỹ thuật "Cho thấy, đừng kể," bạn có thể viết, "Một chiếc SUV húc vào bên hông một chiếc sedan trên làn đường nhanh. Đầu xe SUV cong lên, khói trong máy xe bốc mù mịt. Cửa chiếc sedan bị lõm vào như một mảnh giấy nhầu nát. Kính xe bể nát từng mảnh vụn, văng đầy trên mặt đường. Người lái xe loay hoay bên tay lái, máu me đầy mặt. Anh ta đang cố mở cửa xe mà không được. Bên các làn đường, xe cộ nhích từng chút nối đuôi nhau. Mọi người thò đầu ra cửa xe, mắt dán vào hai chiếc đang dính chùm nhau. Có người còn lấy điện thoại di động chụp hình hoặc quay phim."
Ta thấy ngay lối "kể" thuần túy ngắn gọn nhưng không gợi hình khiến người đọc như là người ngoại cuộc và chấp nhận câu chuyện một cách thụ động. Ngược lại, lối "cho thấy" vẽ ra cảnh tượng sống động và khiến người đọc bị lôi cuốn vào câu chuyện. Người đọc, qua cách diễn tà "cho thấy" tưởng tượng ra ngay tai nạn đó "dữ dộí" và lưu thông bị cản trở, kẹt cứng. Tuy nhiên, lối "cho thấy" khiến đoạn văn dài dòng và người đọc phải vận dụng trí óc để tưởng tượng ra hình ảnh. Khi bị "cho thấy" quá nhiều, khán giả có thể bị căng thẳng, hồi hộp.
Trở về với "Tình Thiên Thu," cách diễn tả nào có lợi hơn?
Việc đó tùy vào ý tác giả. Nếu tác giả muốn câu chuyện có tính chất mô tả và lôi cuốn khán giả vào câu chuyện qua những hình ảnh gợi hình sống động, thì dùng "Cho thấy, đừng kể" đương nhiên là hay hơn. Còn nếu tác giả chỉ muốn kể lại một câu chuyện với các tình tiết chính và từ đó đưa ra những nhận xét và cảm nghĩ của mình thì "Kể, đừng cho thấy" có lợi hơn.
Trần Thiện Thanh quyết định dùng "Kể, đừng cho thấy." Tại sao? Có ít nhất ba câu trả lời.
Trước hết, bài "Tình Thiên Thu" mục đích là cho phim kịch "Mộng Thường." Hẳn nhiên là tác giả có ý định giàn dựng một nhạc cảnh công phu cho bài hát. Một phim kịch, với diễn viên là Thanh Lan trong vai Mộng Thường và Trần Thiện Thanh trong vai Phạm Thái, đương nhiên sẽ có những cảnh "cho thấy" qua cách diễn xuất, hoạt cảnh, v.v. Những cảnh diễn xuất này thường chưa được biết sẽ như thế nào khi bài hát được viết. Do đó, tác giả cố tình viết bài hát không có những chi tiết "cho thấy" vì không muốn bó buộc các diễn viên phải diễn xuất theo các mô tả trong bài hát. Ta thử tưởng tượng nếu bài hát có những cảnh "cho thấy" trong hai đoạn 8 và 9 (ngay sau câu "Một xuân buồn có gió đông qua") để tả cảnh hai người bên nhau trong những giây phút cuối cùng của đời nàng:
Tay trong tay bên cạnh nàngSao nụ cười tắt im?Môi run run ngăn lệ trànVơi nhịp đập trái tim
Ôm nhau mê man nghẹn ngàoMắt mi đẫm trong nỗi sầuNghe lung linh lời thều thàoÔi còn gì nữa đâu?
Tôi không dám xúc phạm đến nhạc sĩ Trần Thiện Thanh khi viết các lời trên thay vào đoạn 8-9, nhưng chỉ muốn đưa ra một thí dụ. Hai đoạn trên là một thí dụ cho lối diễn tả "cho thấy" trong cảnh hai người ở bên nhau trong giây phút cuối cùng của đời nàng. Bạn thấy ngay là hai đoạn "cho thấy" này kém hiệu quả hơn "kể" ước mơ bình thường của nàng đã không thành sự thật. Ngoài ra, những động tác "tay trong tay," "nụ cười tắt im," "môi run run," "nhịp đập," "mắt mi đẫm," và "lời thều thào" có thể tạo ra khó khăn cho diễn viên hoặc ca sĩ diễn tả cảnh tượng. Tưởng tượng Băng Tâm (hoặc Đan Nguyên) phải ráng làm "môi run run" và buông "lời thều thào" khi đang lịm dần trong nhạc cảnh "Tình Thiên Thu" của trung tâm Asia!
Thứ nhì, không có gì sai khi dùng "Kể, đừng cho thấy" cho một bài ballad. Tác gỉả có thể muốn khán giả nghe câu chuyện một cách thụ động mà không phải tham gia vào câu chuyện. Như ta đã thấy, dùng "cho thấy" nhiều quá sẽ làm khán giả căng thẳng, mệt mỏi, và không được thư giãn. Không phải ai cũng muốn nghe những mô tả gợi hình, gợi thanh. Với nhiều người, "kể" giúp họ biết được tình tiết mau lẹ và họ không cần phải suy nghĩ. Ballad, tự nó, là kể chuyện. Nét chính yếu của ballad là tình tiết và nhận xét về câu chuyện, không phải lả cách diễn tả những tình tiết đó.
Thứ ba, thực ra qua câu chuyện Mộng Thường, cũng chẳng có đoạn nào mà "cho thấy" giúp cho bài hát. Vì ý chính của bài là ước mơ bình thường của cô gái muốn lập gia đình với người yêu nàng, không có chỗ nào để có thể "cho thấy" một cách hiệu quả. Có những cảnh sau đây: Hai người gặp nhau, hai người yêu nhau, chàng đánh trận và bị thương, nàng thương tiếc chàng, chàng trở về hội ngộ nàng, nàng đi xe cán mìn, hai người gặp nhau lần chót trước khi nàng chết. Tuy nhiên, vì "cho thấy" đòi hỏi dài dòng, ta không thể "cho thấy" trong mọi cảnh trên được mà phải chọn một cảnh quan trọng và có ý nghĩa nhất. Cảnh có ý nghĩa nhất liên hệ đến mối tình thiên thu là cảnh hai người gặp nhau lần chót trước khi nàng chết. Nhưng như tôi trình bày ở trên, tuy "cho thấy" cảnh đó vẽ ra cảnh tượng sống động và có thể tạo xúc cảm cho khán giả, sự "cho thấy," cho dù được diễn tả hay hơn các câu tôi viết, vẫn có vẻ rẻ tiền và làm mất đi cái cao quý của mối tình hai người. Tác giả có thể đã cân nhắc và quyết định "kể" về trách móc, tiếc nuối, là sao mơ ước nàng bình thường như vậy mà lại không được thành sự thật.
Bằng cách "kể, đừng cho thấy," tác giả đem lại tính chất nhất quán của một bài ballad thuần túy và dùng các câu ngắn gọn để nói lên ý chính câu chuyện. Ý chính đó là nỗi thương tiếc cho ước vọng đơn sơ bình thường của cô gái đã bị tan nát vì chiến tranh.
Cách gieo vần trong các đoạn rất tinh vi và chọn lọc, tạo nên giai điệu du dương, quyến luyến:Một đặc điểm quan trọng của ballad là sự tận dụng vần điệu trong các câu trong đoạn nhạc. Một bài hát có thể kể lể một câu chuyện mạch lạc nhiều tình tiết, nhưng nếu vần điệu nghèo nàn thì cũng không thể gọi là ballad được.
Trước khi bàn đến cách gieo vần trong lời nhạc, ta nên hiểu cấu trúc của chữ trong câu và hiểu sự liên hệ giữa số chữ trong câu với số ô nhịp. Nhịp hoặc trường canh (bar, measure) là khoảng cách thời gian được chia đều trong một bản nhạc. Thông thường, nhịp được lập đi lập lại trong cả bài. Ô nhịp là một phần của khuông nhạc xác định vị trí của nhịp. Mỗi ô nhịp thường tương ứng với một câu trong lời nhạc. Số chỉ nhịp hay số ô nhịp là con số dưới dạng phân số cho biết số phách và độ dài của phách trong ô nhịp. Tương ứng với phách là nốt nhạc và dấu lặng (nghỉ). Nốt nhạc cho biết cao độ (đồ, rê, mi, fa, son, la, si) và trường độ hay độ dài (tròn, trắng, đen, móc đơn, móc kép, v.v.) của âm thanh. Dấu lặng cho biết độ dài của thời gian nghỉ (cho ca sĩ "lấy hơi" hoặc tạo nên tiết tấu đặc thù cho bài hát).
Tác giả sắp đặt số chữ trong một câu bằng cách ̣điều chỉnh độ ngắn dài cho mỗi chữ qua các kết hợp của các nốt nhạc và dấu lặng. Số ô nhịp của "Tình Thiên Thu" là 4/4. Nghĩa là mỗi ô nhịp có 4 phách, và độ dài cùa phách là nốt đen. Do đó, mỗi ô nhịp có thể có bất cứ kết hợp nào của nốt và dấu lặng, miễn là toàn thể ô nhịp tương đương với 4 nốt đen. Thí dụ: 4 nốt đen = 4 nốt móc đơn + 2 nốt đen = 4 nốt móc đơn + 1 nốt đen + 1 lặng đen (một nốt đen có độ dài tương đương với hai nốt móc đơn hoặc một lặng đen).
Thí dụ, câu "Xin cho yêu trong Mộng Thường" có nốt tương ứng như sau: Xin (móc đơn) + cho (móc đơn) + yêu (móc đơn) + trong (móc đơn) + Mộng (đen) + Thường (đen). Nghĩa là hai chữ "Mộng" và "Thường" phải được kéo dài hai lần lâu hơn các chữ "xin," "cho," "yêu," "trong."
Câu "nhưng mộng thường cũng tan" có nốt tương ứng như sau: nhưng (móc đơn) + mộng (móc đơn) + thường (móc đơn) + cũng (móc đơn) + tan (đen) + lặng đen. Nghĩa là chữ "tan" phải được kéo dài hai lần lâu hơn các chữ "nhưng," " mộng," " thường," và sau đó là nghỉ lâu bằng thời gian của "tan."
Với những sắp xếp như vậy, số chữ trong một câu trong lời nhạc được thay đổi tùy vào giai điệu và tiết tấu tác giả muốn. Trong "Tình Thiên Thu," có câu có 7 chữ, 6 chữ, hoặc 5 chữ. Bằng cách thay đổi số chữ trong các câu trong một đoạn, tác giả tạo nên tiết tấu linh động, cho lời trôi chảy, và có vần điệu tự nhiên. Đa số câu trong các đoạn có 6 chữ, thỉnh thoảng biến thái thành 7 chữ hoặc 5 chữ. Những câu có 5 chữ, nhất là các câu chót trong một đoạn, có dấu lặng đen, dài hơn dấu lặng đơn của các câu 6 chữ, dùng để làm chỗ nghỉ cho ca sĩ và cho cả người nghe. Đặc biệt, các câu trong đoạn 7 có chính xác 7 chữ và dấu lặng đơn. Đó là vì phần chót của mỗi đoạn nhỏ (7a, 7b, 7c) là quãng nhạc không lời, dùng như quãng nghỉ cho ca sĩ và người nghe.
Khi biết được số chữ trong câu, ta có thể xem xét lối gieo vần trong mỗi câu. Thông thường, vần của nhạc được gieo vào cuối câu.
Trần Thiện Thanh tận dụng vần điệu trong các phiên khúc để tạo ra nhịp điệu trôi chảy và âm tiết nhẹ nhàng. Ông gieo vần trong tất cả các đoạn với các lối gieo vần khác nhau để tránh nhàm chán. Hình 1 cho thấy các vần trong mỗi đoạn. Trong một đoạn, các câu có cùng vần có cùng màu.
Ta thấy cách gieo vần như sau:Đoạn 1: xen kẽ hoặc vần chéo (cũng có thể coi là cả bốn câu).Đoạn 2: xen kẽ, nhưng chỉ cho hai câu.Đoạn 3: cả bốn câu, và đều là không dấu.Đoạn 4: xen kẽ, nhưng chỉ cho hai câu.Đoạn 5: xen kẽ hoặc vần chéo.Đoạn 6: cặp (liên tiếp), nhưng chỉ có hai câu đầu.Đoạn 7: cặp (liên tiếp), nhưng chỉ có hai câu cuối (hoặc giữa).Đoạn 8: xen kẽ hoặc vần chéo.Đoạn 9: xen kẽ hoặc vần chéo.Đoạn 10: cả bốn câu, và đều là không dấu.
Vần xen kẽ (hoặc vần chéo): Ta thấy Trần Thiện Thanh dùng loại gieo vần này trong đa số đoạn trong bài hát: sáu đoạn trong bài hát mười đoạn. Ngoài ra, hầu hết các vần là vần bằng. Chỉ có đoạn 5 là dùng một vần trắc ("mộng/ động"). Lý do đơn giản là vần bằng nghe nhẹ nhàng và êm ả hơn vần trắc, nhất là trong ca khúc. Đa số các ca khúc dùng vần bằng. Thỉnh thoảng có vần trắc để thay đổi âm tiế́t và phù hợp với nhạc điệu. Nhưng vần trắc ít khi đứng một mình trong một đoạn, và thường có vần bằng đi kèm theo. Thí dụ:
Có ai xuôi vạn lý nhắn đôi câu giúp nàng, Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng.(Hòn vọng phu 2 - Lê Thương)
Trong "Tình Thiên Thu," tác giả lựa chọn vần tinh vi, tỉ mỉ và ý nghĩa các vần có liên hệ mật thiết, không gượng gạo. Khi vần phù hợp cả thanh lẫn ý, sức diễn tả được gia tăng. Thí dụ: "cõi đời" và "giữa trời" trong đoạn 1; "xuân nồng" và "cuối đông" trong đoạn 5; "cũng tan" và chắn ngang" trong đoạn 8; "thiệp hồng" và "nhà chồng" trong đoạn 9.
Vần cặp, trong hai câu liên tiếp trong một cặp (couplet): Trần Thiện Thanh dùng loại gieo vần này trong đoạn 6 và đoạn 7. Trong đoạn 6, chỉ có cặp đầu, còn cặp sau thì không vần. Trong đoạn 7, sẽ được trình bày riêng rẽ sau, chỉ có cặp cuối (thực ra là cặp giữa). Loại gieo vần này cũng rất thông dụng, nhất là trong các ca khúc Mỹ. Sau đây là vài thí dụ:
Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời Đặt tên cho anh anh là Quốc Đặt tên cho anh anh là nước (Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc - Phạm Duy)
But February made me shiverWith every paper I'd deliverBad news on the doorstepI couldn't take one more step (American Pie – Don McLean)
Lần nữa, tác giả chọn lọc vần cho hợp cả thanh lẫn ý. Thí dụ: "giao tranh" và "mong manh" trong đoạn 6; "ban mai" và "tương lai" trong đoạn 7b; "phương xa" và "đông qua" trong đoạn 7c. Ngoài ra, khác với lối thông thường gieo vần cho hai cặp trong một đoạn bốn câu như trong các thí dụ trên, ông chỉ gieo vần cho một cặp. Làm vậy, tác giả tránh sự nhàm chán hoặc máy móc, và tạo nét biến thái trong âm điệu.
Vần cặp trong ba câu (triplet): Đoạn 7 là một đoạn thật độc đáo trong cả bài. Trước hết, đoạn này là đoạn cuối của thân bài, và là cao đỉnh của câu chuyện. Như đã trình bày trên, các câu trong đoạn này đều có đúng 7 chữ. Với nhiều chữ hơn các đoạn khác, đoạn này cho tác giả kể lể nhiều hơn, và đem lại thay đổi cho tiết tấu. Phần này chia ra ba đoạn nhỏ (7a, 7b, 7c). Mỗi đoạn nhỏ có ba câu (triplet). Thực ra mỗi đoạn nhỏ có bốn câu, nhưng câu chót không có lời mà chỉ có nhạc với giai điệu y hệt như giai điệu của câu thứ ba. Mục đích của câu chót không lời là cho khoảng thời gian cho người nghe thấm lời, cho ca sĩ lấy hơi, và cho tác dụng thời gian cho câu chuyện. Đại khái, tác giả không muốn kể chuyện với những biến cố dồn dập liên tiếp nên dùng nhạc để tạo khoảng nghỉ, nhưng vẫn tiếp tục tiếng nhạc như là tiếng vang lại của lời.
Trong ba đoạn này, tác giả dùng vần trong hai câu liên tiếp như đã trình bày ở trên. Để ý là tác giả dùng vần có thanh không dấu ("sao/ đau, mai/ lai, xa/ qua"). Như sẽ trình bày sau, tác giả dùng giai điệu này để diễn tả sự êm ả, mơ hồ, nhẹ nhàng, không dứt khoát.
Đoạn 7, do đó, kể phần chính câu chuyện với giai điệu êm ái và không dồn dập, để dẫn đến câu quan trọng của câu chuyện. Đó là câu nàng chết: "Mà chết người gái nhỏ phương xa." Nhờ đã giàn dựng trước đó, cái tin đau thương không đến đột ngột, và được báo một cách nhẹ nhàng, theo sau bằng một câu cũng nhẹ nhàng ("Một xuân buồn có gió đông qua") và khoảng nhạc nghỉ.
Vần cho cả đoạn: Loại vần này gieo vần cho mỗi câu trong cả đoạn, bất chấp đoạn đó có bao nhiêu câu. Tác dụng của nó là giữ sự chú ý của người nghe trong suốt cả đoạn. Một ca khúc thường không nên dùng loại vần này quá nhiều vì dễ tạo nhàm chán. Nhưng khi được dùng khéo léo, loại vần này rất hiệu quả. Đoạn nhạc/ thơ có thể có số câu thông thường (4 câu), hoặc dài (6 tới 10 câu) và dùng cả vần không dấu và dấu huyền. Sau đây là vài thí dụ:
Ngày trở về, anh bước lêTrên quãng đường đê đến bên lũy treNắng vàng hoe, vườn rau trước hè cười đón người về(Ngày Trở Về - Phạm Duy)
Ngựa phi ngoài xa hí vang trời, Chiêng trống khua trăm hồi, Ngần ngại trên núi đồi, Rồi vọng ra khắp nơiPhía cách quan xa vời, chiêng trống khua trăm hồi, ngần ngại trên núi đồi, rồi dậy vang khắp nơi thắm bao niềm chia phôi(Hòn Vọng Phu 1- Lê Thương)
So bye-bye, Miss American PieDrove my Chevy to the levee, but the levee was dryAnd them good old boys were drinkin' whiskey in RyeSingin' "This'll be the day that I dieThis'll be the day that I die"(American Pie – Don McLean)
Trở về với "Tình Thiên Thu," Trần Thiện Thanh chứng tỏ là một thiên tài trong việc dùng cùng một vần cho cả đoạn. Ông dùng trong đoạn 3 và đoạn 10. (Đoạn 1 có thể coi là bốn câu, nhưng không có cùng thanh không dấu.) Đoạn 3 là đoạn chót trong phần nhập đề và đoạn 10 là đoạn chót cho phần kết và cũng là cho cả bài hát. Vì vần cho cả đoạn tạo sự chú ý cho người nghe, tác giả dùng đoạn đó là dấu hiệu cho biết là đoạn cuối của phần đó. Ông cũng dùng nó như một khí cụ chuyển tiếp (transition) từ một phần sang phần khác.
Điểm đặc sắc của cách gieo vần trong các đoạn này là lối dùng toàn là thanh không dấu, thay vì lẫn lộn thanh không dấu và thanh (dấu) huyền, hoặc toàn là thanh (dấu) huyền.
Có gì đặc sắc ở thanh không dấu?
Âm tiết tiếng Việt rất là thanh thót, trầm bổng, "du dương hòa điệu," "giống như bản nhạc liên hồi" (trích trong Đỗ 1972, 13; Cao-Đắc 2014a, 476-477). Alexandre de Rhodes đã phải thốt lên là người Việt nói chuyện với nhau nghe như chim hót, nhất là giữa phái nữ (sđd., 12). Với các dấu, tiếng Việt khi phát âm tạo ra các thanh tương ứng khác nhau. Ta có thanh không dấu, thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã, và thanh nặng. Mỗi thanh có sự trầm bổng lên xuống khác nhau như người Việt nào cũng biết. Ta không rõ nguồn gốc của sáu thanh này, nhưng ta có thể đoán mỗi thanh có liên hệ đến tình cảm, ý tưởng, tâm trạng, cảnh tượng, năng lực của chữ đó. Đó là vì tiếng Việt là loại tiếng tình cảm, cả về nội dung lẫn hình thức (phát âm).
Thanh không dấu gợi âm thanh hoặc hình ảnh êm ái, nhẹ nhàng, thảnh thơi, yếu đuối, mơ hồ, cao quý, vương vấn, bao quát, dây dưa. Thí dụ: bao la, bâng khuâng, bi thương, bơ vơ, cô đơn, du dương, ̣đê mê, đong đưa, đơn sơ, hân hoan, hoang vu, lang thang, lênh đênh, lo âu, long đong, long lanh, lung linh, lưa thưa, mê man, mênh mông, miên man, mông lung, ngây ngô, ngu ngơ, nguy nga, phôi phai, thanh tao, thương tâm, trơn tru, van xin, vi vu, vinh quang, vu vơ, xa xôi, xanh xao, xôn xao.
Thanh huyền gợi âm thanh hoặc hình ảnh trầm trọng, buồn bã, dài dòng. Thí dụ: ầm ì, bàng hoàng, bầy nhầy, buồn rầu, cần cù, dần dà, đầm đìa, khề khà, khù khờ, lầm lì, lè nhè, lòng thòng, lừ đừ, màu mè, thều thào, thì thầm, rềnh ràng, rườm rà, rù rì.
Tôi sẽ không đi sâu thêm vào các thanh trắc, nhưng đại khái các thanh này liên kết với âm thanh hoặc hình ảnh mạnh bạo, sôi nổi, linh động, sắc bén, tương phản, thô kệch, chi tiết, nghiêm nghị, mau lẹ. Thí dụ: ấm ức, háo hức, lách tách, lúc nhúc, mất mát, trống vắng, thánh thót, thích thú, thiếu thốn, tức tối, bẩn thỉu, hổn hển, khẩn khoản, lẩm cẩm, lẩy bẩy, lổn ngổn, lởm chởm, rủng rỉnh, tỉ mỉ, ủn ỉn, bỡ ngỡ, lẫm chẫm, lõm bõm, ngẫm nghĩ, vĩnh viễn, cực nhọc, luộm thuộm, rậm rạp, trịnh trọng, thịnh vượng.
Khi các thanh được kết hợp, tác dụng của chúng cũng được kết hợp. Thí dụ: "lo âu" chỉ trạng thái "lo" về chuyện gì đó một cách âm ỉ, chung chung, không rõ rệt, nhưng "lo lắng" chỉ một mối "lo" mạnh hơn và rõ rệt hơn; "hân hoan" chỉ một niềm vui tổng quát rộng rãi; "hoan hỉ" chỉ một niềm vui chật hẹp, đặc thù, và rõ rệt; "thanh tao" chỉ nét quý phái tổng quát; "thanh nhã" chỉ nét đẹp đặc thù của cử chỉ, dáng điệu; "buồn rầu" chỉ nỗi buồn tổng quát; "rầu rĩ" nhấn mạnh nỗi buồn đó.
Trở về với âm nhạc, giai điệu cho vần có thanh không dấu khiến người nghe cảm thấy nỗi niềm vương vấn, bâng khuâng, quyến luyến, chưa có gì dứt khoát, và muốn được biết thêm.
Trần Thiện Thanh sắp xếp giai điệu để đặt vần có thanh không dấu tại vị trí tốt nhất: cuối phần nhập đề (đoạn 3) và cuối phần kết, cũng là cuối bài (đoạn 10). Ta có thể hiểu dễ dàng cái hiệu quả ở cuối phần nhập đề, vì tác giả muốn tạo cảm giác vương vấn cho người nghe khiến người nghe muốn biết thêm. Các vần được lựa chọn tinh vi: "thê lương," "yêu đương," "ghen tuông," "trót thương." Không những chuẩn (tuy "tuông" có chút xíu lạc), ý nghĩa các vần này liên hệ thật chặt chẽ: tình yêu nào cũng có "trót" thương, ghen tuông, và, trong trường hợp câu chuyện này, dẫn đến thê lương.
Nhưng tạo cảm giác đó ở cuối bài mới thật là tuyệt diệu và chỉ có bậc thầy như Trần Thiện Thanh mới làm được chuyện đó. Tại sao? Thông thường, cuối bài hát là kể hết câu chuyện, đâu còn gì nữa mà vương vấn, tò mò? Tuy nhiên, tác giả không muốn khán giả chấm dứt câu chuyện, và muốn tạo cảm giác ngân vang trong tâm trí về câu chuyện. Đó là chỉ mới về âm thanh mà thôi. Với cách dùng chữ và lựa chọn từ ngữ tỉ mỉ, Trần Thiện Thanh khiến người nghe phải bịn rịn, lưu luyến, ngẩn ngơ với câu chuyện cho dù câu chuyện đã chấm dứt.
Ta hãy nghe lại đoạn chót:
Chàng thề không còn yêu ai dẫu cho ngày tháng phôi phai Nhiều lần chàng mộng liêu traiNàng hẹn chàng kiếp mai.
Với các cặp chữ "yêu ai," "phôi phai," "liêu trai," "kiếp mai," tác giả cho thấy mối tình thiên thu. Một lần nữa, không những vần chuẩn mà ý nghĩa còn liên hệ mật thiết. Ý nghĩa của "không còn yêu ai," "phôi phai," "liêu trai," và "kiếp mai" cho thấy cái gì huyền bí, chưa dứt khoát, còn trong tương lai. Cộng với cái ý nghĩa "thiên thu" đó, thanh không dấu tạo nên cảm xúc quyến luyến, trông chờ. Nhưng không phải chỉ có thanh không dấu mà thôi. Các thanh không dấu này liên kết nhau qua vần (ai, phai, trai, mai) cho thấy tác giả quyết tâm để âm tiết này vang vang trong đầu người nghe để tạo ấn tượng lâu dài.
Ngoài ra, thanh không dấu làm dễ dàng kéo dài âm thanh một chữ/ tiếng mà không bị mất âm tiết. Bạn có thể kéo dài tiếng "ai" cả phút mà không làm mất âm tiết. Nhưng bạn không thể làm chuyện đó dễ dàng với "ài," "ái", "ải," "ãi," và "ại." Trong "Tình Thiên Thu," chữ "thương" ở đoạn 3 và chữ "mai" ở đoạn 10 có dấu lưu (trong tờ nhạc), nghĩa là chữ đó có thể kéo dài bao lâu cũng được. Chỉ có thanh không dấu mới kéo dài dễ dàng. Tại sao kéo dài? Vì tác giả muốn giữ âm tiết trong tâm trí khán giả để họ vương vấn với câu chuyện. Đó là lý do tại sao nhiều bản nhạc Việt Nam đều tận cùng bẳng thanh không dấu để ca sĩ có thể kéo dài tùy ý.
Bằng cách dùng vần cho cả đoạn và thanh không dấu, và vị trí cuối phần nhập đề vả cuối bài, Trần Thiện Thanh giữ người nghe chú ý trong cả bài và ngay cả khi bài chấm dứt. Nhiều khi, người nghe muốn nghe đi nghe lại bài hát chỉ vì hai đoạn 3 và 10 này.
Nói tóm lại, Trần Thiện Thanh viết giai điệu nhạc là khuôn khổ cho các đoạn thơ có những vần được sắp đặt một cách truyền cảm, tạo nên giai điệu du dương, có tác dụng linh động, và giúp tạo nên nỗi niềm bịn rịn, lưu luyến, ngẩn ngơ cho người nghe. Tác dụng này còn được tăng cường hơn qua cách dùng từ ngữ gợi hình và gây cảm xúc. Do đó, tuy câu chuyện đơn giản và không có tình tiết éo le, cách dùng vần điệu và giàn dựng tiết tấu giúp toàn thể bài hát diễn tả mối tình thiên thu thật tuyệt vời.
Kết Luận:Ca khúc "Tình Thiên Thu" là một bài ballad có nội dung và hình thức theo truyền thống. Trần Thiện Thanh kể câu chuyện tình buồn với bố cục chặt chẽ và mạch lạc. Cái ý chính về ước mơ bình thường không được trọn vẹn được diễn tả hiệu nghiệm qua lối "kể, không cho thấy" giúp người nghe thấu hiểu câu chuyện dễ dàng. Cộng thêm với cách thức dùng vần điệu chọn lọc và tinh vi, tác giả tạo nên tác dụng quyến luyến ngẩn ngơ cho người nghe.
Tuy các nhân vật trong câu chuyện không có thật hoàn toàn, một phần tình tiết thể hiện thực trạng của những chuyện tình trong chiến tranh. Do đó bài hát phản ảnh trung thực tình trạng xã hội của miền Nam Việt Nam trước 1975. Ngoài ra, mặc dù cái chết của cô gái trong chuyện là do bởi chiến tranh, bài hát không hề trách móc hoặc nguyền rủa kẻ tạo ra tang tóc chia ly. Đó là tính chất nhân bản vị tha của người miền Nam Việt Nam không cộng sản.
CẢM TẠTôi xin có lời cảm tạ các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo, nhất là các bạn emSAIGON, Sài gòn, daubetangthuong, mythanh, và bức xúc, đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn emSAIGON.
© 2014 Cao-Đắc Tuấn
____________
Tài Liệu Tham Khảo:
Batema, Cara. Không rõ ngày. Lyrical Poems vs. Ballads.
http://education.seattle...ems-vs-ballads-5500.html (truy cập 8-11-2014).
Cao-Đắc, Tuấn. 2014a. Lửa Cháy Trong Mưa. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.
_______. 2014b. " Hồn lỡ sa vào đôi mắt em". 6-8-2014.
http://danlambaovn.blogs...lo-sa-vao-oi-mat-em.html (truy cập 13-8-2014)._______. 2014c. Những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. 2-10-2014.
http://danlambaovn.blogs...-cua-ho-chi-minh-va.html (truy cập 16-11-2014).
Đỗ Quang Chính. 1972. Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659. Tủ sách Ra Khơi, Sài gòn, Việt Nam.
Nguyễn Phán. Không rõ ngày. An Lộc một lần tôi đã đến, một lần để nhớ.
http://www.bietdongquan....1/anloacmotlantoiden.htm (truy cập 9-11-2014).Nhạc Việt trước 75. Không rõ ngày. Tình thiên thu của Nguyễn Thị Mộng Thường (Trần Thiện Thanh).
http://amnhacmiennam.blo...cua-nguyen-thi-mong.html (truy cập 15-11-2014).Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Không rõ ngày. Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khoá 24.
http://khoa24.vobidalat.net/danhsach.html (truy cập 9-11-2014).Wikipedia. 2014a. Trần Thiện Thanh. Thay đổi chót: 22-10-2014.
http://vi.wikipedia.org/...%A7n_Thi%E1%BB%87n_Thanh (truy cập 13-11-2014).
_______. 2014b. Ballad. Thay đổi chót: 28-10-2014.
http://en.wikipedia.org/wiki/Ballad (truy cập 8-11-2014).