2. Những cảm xúc thích hợp với tính chất lãng mạn trong tình yêu của người Việt được diễn tả kín đáo:
Một khía cạnh quan trọng của "Tiếng Xưa" là những cảm xúc đó rất thích hợp với bản chất người Việt trong cả ba miền Nam Trung Bắc.
Ta thấy tính chất nồng nàn sôi động trong tình yêu của người Việt qua các câu ca dao. Những lời thề non hẹn biển của các cặp tình nhân còn mạnh mẽ hơn cả chuyện "tàn một thời liệt oanh":
Yêu nhau mấy núi cũng leo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua.
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.
Nếu mà không lấy đặng em,
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu.
Những lời tiếc nuối cho tình yêu dang dở, lỡ làng:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay.
Cách nhau một bức rào thưa
Tay chùi nước mắt, tay đưa miếng trầu.
Tình bạn tri âm:
Mông mênh góc biển chân trời,
Biết trong thiên hạ ai người tri âm?
Tình bạn tri kỷ cũng được thể hiện qua quan họ:
Ngồi (rằng là) ngồi tựa (ối a) song đào ngồi tựa (ối a) song đào
Hỏi người (là người) tri kỷ ra vào có thấy vấn vương.
Cho dù vô tình hay cố ý, Dương Thiệu Tước gói ghém bản chất lãng mạn trong tình yêu và tình bạn của người Việt qua những cảm xúc nhẹ nhàng. Ông còn thắt chặt những cảm xúc đó bằng một khí cụ thanh nhã: tiếng đàn. Dương Thiệu Tước không muốn diễn tả những cảm xúc đó qua lời bình dị của ca dao hoặc dân ca, vì lời lẽ bình dị không thích hợp với thú vui thanh nhã của người gẩy đàn. Ngược lại, ông dùng ngôn từ chọn lọc và cách diễn tả chải chuốt như sẽ được trình bày sau.
Tác giả còn diễn tả các mối tình một cách kín đáo, phù hợp với bản chất rụt rè, lễ độ của dân Việt (lúc bấy giờ). Sự nồng nàn sôi động được gợi ý qua "khúc nghê thường" và "tàn một thời liệt oanh"; nỗi đau thương của cuộc tình dở dang được che đậy bằng "nhớ nhung vì đâu" và "thắm đôi giòng châu"; tình yêu thầm kín qua tình bạn tri âm được trá hình bằng câu hỏi vẩn vơ "ai đó hay chăng," "ai đó tri âm hững hờ." Ông lại còn khéo léo dùng cảnh để làm giảm bớt cái nồng nàn hoặc đau thương trong cuộc tình. Ông dùng "bóng trăng xưa" và "gió mây lạnh lùng" để làm dịu đi "tan một thời liệt oanh'; "chiều thu" để che giấu nỗi đau thương; "khói hương," "tóc mây," "dáng liễu" gợi ý cho một mối tình thầm kín với người bạn tài hoa tri kỷ.
Khán giả tự hỏi không biết tác giả "tức cảnh sinh tình" hay "tức tình sinh cảnh"?
Tóm lại, "Tiếng Xưa" là lời ghi nhận những cảm xúc rời rạc về tình cảm lãng mạn và tình bạn đến từ tiếng đàn trong quá khứ, được gợi ra từ hình ảnh trong một buổi chiều thu. Dương Thiệu Tước có thể ghi nhận những cảm xúc này do kinh nghiệm bản thân, hoặc qua trí tưởng tượng về một nhân vật hoặc mối tình không có thật, hoặc cả hai. Ông không có ý định gói ghém một tâm tư, một thông điệp, hoặc một câu chuyện tình cảm rõ rệt nào. "Tiếng Xưa" thuần túy là một tác phẩm nghệ thuật vẽ ra những tình cảm nhẹ nhàng êm ả từ một khung cảnh dịu dàng.
C. Bài hát có lối diễn tả chọn lọc và hữu hiệu qua kỹ thuật phối hợp tả cảnh và tả tình:
Ca khúc "Tiếng Xưa" vừa tả cảnh vừa tả tình. Nhưng cái tình trong "Tiếng Xưa" có chút khác biệt với cái tình trong các bài hát tả tình khác.
1. Cảnh và tình có mối liên hệ chặt chẽ vì bài hát do bởi nhân vật "tức cảnh sinh tình":
Các bài tả tình khác thường diễn tả tình cảm hiện tại thể hiện song song với cảnh tượng đang xảy ra. Trong các bài này, cái tình mô tả không phải là vì nhân vật trong câu chuyện ngắm cảnh đang tả rồi nảy ra cảm xúc. Sự liên kết giữa cái tình và cảnh thường không chặt chẽ. Có thể có tình cảm về quá khứ, nhưng sự hồi tưởng về quá khứ không phải là hậu quả trực tiếp từ cảnh đang được mô tả. Thí dụ trong bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại," tác giả tả cảnh anh lính đi lội bùn qua rãnh, nhìn chim bay, nghe vượn hú, ngồi trong hào lạnh lẽo, và nghĩ đến mẹ, em, và người yêu. Cái hình ảnh quá khứ về mẹ anh dẫn anh đi học trên con đường làng không có trực tiếp liên hệ đến cảnh rừng núi chim bay vượn hú. Tương tự, trong bài "Chuyến Đò Vĩ Tuyến," tác giả tả cảnh con đò nhỏ trên giòng sông dưới ánh trăng sáng, và những cảm xúc thở than, lo âu, mơ mộng của cô gái. Những cảm xúc này không được tạo ra trực tiếp vì cô gái ngắm hình ảnh ánh trăng sáng, nghe sóng vỗ bên con đò, hoặc nhìn giòng sông mênh mông, mà chỉ gián tiếp do sự cô đơn thanh vắng và những tưởng tượng của cô.
Ngược lại, cái tình trong "Tiếng Xưa" là những cảm xúc nảy ra khi nhân vật ngắm cảnh. Nhân vật hồi tưởng lại quá khứ vì hậu quả trực tiếp do bởi cảnh đang xảy ra hiện tại. Nói cách khác, cái cảm xúc diễn tả trong "Tiếng Xưa" là do bởi "tức cảnh sinh tình."
Thì đã sao? Việc đó có ảnh hưởng gì đến nội dung hoặc ý nghĩa của bài hát không?
Đương nhiên là có. Với một bối cảnh "tức cảnh sinh tình," những hình ảnh của cảnh tượng có một mối liên hệ chặt chẽ với các cảm xúc. Một cách rõ rệt, những hình ảnh, âm thanh, hay mùi vị của cảnh là nguyên nhân dẫn đến cảm xúc. Nói một cách khác, các cảm xúc được tạo ra là hậu quả của cảnh. Chính cái diễn tả mối liên hệ đó giữa cảnh và tình nói lên được tâm trạng của nhân vật trong cảnh. Cái liên hệ này thường không có tính chất tổng quát, áp dụng cho mọi trường hợp, mà có tính chất đặc thù, chỉ áp dụng cho nhân vật trong cảnh mà thôi. Đó là vì mỗi người có kinh nghiệm sống khác nhau và có những kỷ niệm trong quá khứ khác nhau. Thí dụ, khi nghe tiếng mưa rơi rả rich, có người cảm thấy nỗi buồn lai láng, vì âm thanh đó nhắc lại một cảnh trong quá khứ xa xôi không còn nữa; nhưng cũng có người cảm thấy vui tươi. vì nó gợi lại thời trẻ con chạy tắm vui đùa trong mưa.
2. Lối dùng chữ chọn lọc, phẩm chất cao, dùng nhiều điển tích Tàu:
Trong "Tiếng Xưa," Dương Thiệu Tước có lối dùng chữ cầu kỳ, chải chuốt, chọn lọc, khách quan, có chút gì quý phái, phẩm chất cao (classy). Lối dùng chữ đó tuy không bình dân, giản dị, nhưng thích hợp với mọi hạng người. Những từ ngữ này không tạo tác dụng mạnh theo chiều sâu cho một ý tưởng nào đó, nhưng có tác dụng làm dịu đi những vương vấn, lo âu, theo chiều rộng. Khán giả có cảm xúc nhẹ nhàng, êm ái, và dễ dàng thả hồn trong lời ca tiếng nhạc.
Dương Thiệu Tước dùng nhiều mỹ từ, như nhân cách hóa, ẩn dụ, so sánh, câu hỏi tu từ: lá reo, tơi bời, thắm, giòng châu, tóc mâу (tóc như mây), dáng liễu (dáng dấp như cây liễu), mạch sầu (nỗi sầu như mạch), đường tơ (sợi nhạc như sợi tơ), hương thu (hương thơm mùa thu), saу khúc (đắm chìm trong nhạc). Thí dụ, "giòng châu" dùng như một mỹ từ để chỉ giòng nước mắt, như trong "nhìn thấy quân Hán dầy xéo sông núi nhà, giòng châu rơi" trong Hồn Tử Sĩ (Lưu Hữu Phước), "muôn giòng châu đứt nối chưa tròn" (Vũ Hoàng Chương, trong "Hoài niệm Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và cảm đề Giòng Sông Thanh Thủy," ngày 4 tháng 1 năm 1964.) Những từ ngữ về cảm xúc diễn tả tình cảm nhẹ nhàng, êm ái: ngậm ngùi, bâng khuâng, nhớ nhung, tiếc thaу, man mác, vấn νương, lưu luуến, say (mê).
Một đặc điểm trong "Tiếng Xưa" là những gợi ý qua điển tích hoặc lịch sử Tàu. Ta thấy "phím loan," "khúc nghê thường," "lệ Tầm Dương." và "tri âm." "Tri âm" đã trở thành thông dụng, và ai cũng hiểu ý nghĩa. "Phím loan" có chút khó hiểu cho một số người, nhưng ai cũng có thể suy đoán là các phím đàn. Tuy nhiên, "khúc nghê thường" và "lệ Tầm Dương" có thể tạo chút khó khăn cho khán giả. Cái móc nối giữa "khúc nghê thường" và "một thời liệt oanh," "lệ Tầm Dương" và "tri âm" khá tinh tế. Nếu không biết đến chuyện Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, Bạch Cư Dị và Tỳ bà hành, khán gỉả sẽ không thấu đáo cái ý tưởng sâu xa.
Nhưng ta cũng nên hiểu Dương Thiệu Tước không phải viết "Tiếng Xưa" cho tất cả mọi người. Điều đó hoàn toàn không có nghĩa ông coi thường khán giả. Ngược lại nữa là khác. Ta thấy ông có sự kính trọng khán giả qua cách dùng chữ chọn lọc, cách diễn tả khách quan nhẹ nhàng, và không có ý tưởng chủ quan để buộc khán giả theo ý nghĩ ông. Ngoài ra, ta cũng nên hiểu bối cảnh văn chương và xã hội lúc ông viết "Tiếng Xưa." Lúc bấy gìờ, tân nhạc (nhạc cải cách) vẫn còn phôi thai, phương tiện truyền thông qua đài phát thanh còn thiếu thốn, đài truyền hình chưa có. Do đó, chỉ có một thiểu số khán giả biết đến tác phẩm ông, và ông biết chuyện đó, và ông không có ý định viết lời bình dị cho đại chúng. Cuối cùng, các điển tích Tàu trong "Tiếng Xưa" cũng không có vai trò quan trọng cho lắm. Cho dù khán gỉả không hiểu rõ, họ cũng vẫn thưởng thức bài hát vì bài hát có nhiều diễn tả dễ hiểu và thông dụng khác.
3. Bài hát phối hợp tả cảnh và tả tình với kỹ thuật "xen kẽ" tạo tác dụng mạnh trên khán giả:
Dương Thiệu Tước dùng một kỹ thuật độc đáo cho việc tả cảnh và tả tình. Tương tự như Lam Phương trong "Chuyến Đò Vĩ Tuyến", Dương Thiệu Tước phối hợp "cho thấy" và "kể" một cách tài tình. Khác với Lam Phương dùng kỹ thuật luân phiên, Dương Thiệu Tước dùng kỹ thuật "xen kẽ," lồng "cho thấy" và "kể" trong cùng một câu. Nhờ vậy, ông tránh việc dùng những biến thể của cảm xúc như Lam Phương, vì cái tình ông đang diễn tả không có cái cực điểm như trong "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" mà chỉ là những cảm xúc rải rác có cường độ gần như nhau. Hai nhạc sĩ dùng hai kỹ thuật khác nhau để đạt hai mục tiêu khác nhau, và mỗi kỹ thuật có sắc thái tuyệt vời riêng.
Hình 1 diễn giảng lối dùng xen kẽ cho "cho thấy" và "kể." Trong mỗi câu, các nhóm chữ được tô màu theo tác dụng của chúng. Màu vàng là "cho thấy" và màu xanh dương là "kể."
Thí dụ, trong câu "Ѕương mờ ngậm ngùi xuân xanh," "Ѕương mờ" cho thấy sương mủ bao phủ không gian mờ mờ, và kể nỗi niềm "ngậm ngùi" cho thời "xuân xanh." Tương tự, "bâng khuâng" kể nỗi niềm bâng khuâng, tạo bởi cho thấy "phím loan νương tinh."
Ta cũng nên để ý là cái liên hệ giữa cảnh tượng cho thấy không nhất thiết chính xác tương ứng một cách tổng quát với cảm xúc được kể, vì mối liên hệ đó rất chủ quan, dựa vào kinh nghiệm và tâm tư NVTC. Thí dụ cảnh sương mù mờ ảo không nhất thiết dẫn đến cái cảm xúc ngậm ngùi nhớ đến thời xuân xanh cho tất cả mọi người, mà đó chỉ dẫn đến cảm xúc đó cho NVTC.
Một tác dụng tuyệt diệu trong kỹ thuật xen kẽ đó là ông dung hòa cảnh và tình một cách hỗ tương. Như đề cập ở trên, ngoài chuyện dùng cảnh để dẫn đến tình, ông dùng cảnh để làm giảm bớt sự nồng nàn hoặc đau thương trong tình yêu. Bằng cách mượn cảnh để tả tình và tả cảnh để trang điểm tình, Dương Thiệu Tước cho thấy tài năng đặc sắc trong lời nhạc.
Là một nghệ sĩ, Dương Thiệu Tước có nhiệm vụ diễn tả ý tưởng theo ý ông, và không nhất thiết phải theo ý mọi người. Khán gỉả có thể hiểu, không hiểu, hoặc hiểu sai ý tưởng ông. Khán gỉả có thể đồng ý hay không đồng ý sự chính xác của lối diễn tả, nhưng không thể chỉ trích nó chỉ vì nó không phù hợp với kinh nghiệm cá nhân. Như trong thí dụ trên, ông dùng hình ảnh sương mù bao phủ không gian để dẫn đến cảm xúc bùi ngùi cho thời xuân xanh. Có người sẽ không đồng ý sự chính xác đó, vì họ khi nhìn sương mù, họ không nghĩ đến thời xuân xanh. Nhưng không vì thế mà họ chỉ trích cách diễn tả của Dương Thiệu Tước, vì ông đâu có diễn tả cảm xúc của họ đâu? Cái giá trị của một tác phẩm nghệ thuật không phải là cái hấp dẫn cho đại chúng mà là cái diễn tả độc đáo của nó, miễn là cái diễn tả đó không đi ngược lại những giá trị đạo đức luân lý hoặc vẻ đẹp đã được thiết lập vững vàng.
Trong ngành mỹ thuật hội họa, nhiều họa sĩ không cần khán gỉả. Adolph Gottlieb, Mark Rothko, và Barnett Newman, họa sĩ nổi tiếng thuộc trường phái Biểu hiện trừu tượng (Abstract Expressionism), từng tuyên bố, "Công việc họa sĩ chúng tôi là khiến cho người xem nhìn theo lối của chúng tôi, không phải là lối của họ" ("It is our function as artists to make the spectator see our way, not his way") (Hess 2006, 82). Dương Thiệu Tước không có cái cao ngạo đó của các họa sĩ Tây phương. Ngược lại, ông có sự nhún nhường, tinh tế của một nghệ sĩ Việt Nam, nhưng vẫn giữ được cái quý phái, cá biệt, và độc đáo của riêng mình.
D. Kết Luận:Ca khúc "Tiếng Xưa" là một bài hát diễn tả những cảm xúc nhẹ nhàng êm ái của người trong cảnh hồi tưởng lại những mối liên hệ tình cảm trong quá khứ khi ngắm cảnh hoàng hôn vào mùa thu. Bài hát phản ảnh phần nào trào lưu tình cảm trong xã hội Việt Nam trước chiến tranh vào khoảng đầu thế kỷ thứ 20. Tuy có chút hương vị Tây phương vì tính chất lãng mạn, bài hát giữ những nét đặc thù dân tộc qua cách diễn tả kín đáo, nhẹ nhàng, của các mối tình sôi nổi và tình bạn tinh khiết qua mối liên hệ thanh tao của âm nhạc.
Qua "Tiếng Xưa," Dương Thiệu Tước biểu lộ tài năng xuất chúng, thiết lập cho chính ông một trường phái âm nhạc với giai điệu êm ái, tiết tấu hữu hiệu có tác dụng mạnh, ca từ quý phái, chọn lọc, và kỹ thuật diễn tả tinh vi chải chuốt, phối hợp tả cảnh và tả tình độc đáo. "Tiếng Xưa" bộc lộ tâm hồn lãng mạn nhẹ nhàng kín đáo, tình cảm tràn trề của dân Việt. Sau hơn 70 năm, bài hát vẫn tạo cảm xúc bồi hồi cho người nghe, như tiếng vọng êm ái của thời quá khứ xa xôi nào đó.
CẢM TẠTôi xin có lời cảm tạ các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo, nhất là bạn San Jose, đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn San Jose.
Cao-Đắc Tuấn
__________
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Bạch Cư Dị. Không rõ ngày. Tỳ bà hành.
hoasontrang.us/tangpoems/duongthi.php?loi=38 (truy cập 13-12-2014).
2. Cultural China. Không rõ ngày. Dance of Rainbow Skirt & Feathered Dress.
arts.cultural-china.com/en/96Arts178.html (truy cập 13-12-2014).
3. Du Tử Lê. 2012. Minh Trang, Định Mệnh Và, Những Vòng Nguyệt Quế. Đăng 22-9-2012.
dutule.com/D_1-2_2-105_4-70/minh-trang-dinh-menh-va-nhung-vong-nguyet-que.html (truy cập 14-12-2014).
4. Giòng Bắc Việt. Không rõ ngày. Ngũ Cung Việt Nam trong quan niệm xưa.
vietnamclassical.files.wordpress.com/2010/12/ngucung-vietnam.pdf (truy cập 15-12-2014).
5. Harris, Barry. 2013. Barry talking about the Importance of Rhythm. Posted 11-3-2013.
youtube.com/watch?v=N5VDXcmRiaU (truy cập 13-12-2014).
6. Hess, Barbara. 2006. Abstract Expressionism. Taschen, Germany.
7. LaCombe, Daniel. Không rõ ngày. Rhythmic Techniques Used to Elicit Surprise. University of Delaware.
evanbradley.net/papers/annotbib/Dan_muscog.pdf (truy cập 13-12-2014).
8. Nhạc Việt trước 75. Không rõ ngày. Tiếng xưa (Dương Thiệu Tước).
/amnhacmiennam.blogspot.com/2014/07/tieng-xua-duong-thieu-tuoc.html#more (truy cập 14-12-2014).
9. Phạm Duy. Không rõ ngày. Thời Kỳ Thành Lập (1938-45) - Xu Hướng Nhạc Tình Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình - Nhóm MYOSOTIS - Hoa Lưu Ly.
phamduy.com/en/van-nghien-cuu/khai-quat-ve-tan-nhac-viet-nam/5451-xu-huong-nhac-tinh-duy-nhien-lang-man-tru-tinh (truy cập 14-12-2014).
10. Phạm Phú Minh. 2012. Dương Thiệu Tước, tiếng xưa của chúng ta. 5-3-2012.
saigonecho.info/main/vanhoc/vanthisi/33639-dng-thiu-tc-ting-xa-ca-chung-ta.html (truy cập 14-12-2014).
11. Quỳnh Giao. 2007. Dương Thiệu Tước và... Ngọc Lan. Đăng 7-5-2007.
chutluulai.net/forums/showthread.php?t=2396 (truy cập 14-12-2014).
12. _______. 2008. Tạp ghi Quỳnh Giao: Tiếng Xưa của Dương Thiệu Tước. 23-6-2008.
cothommagazine.com/nhac/DuongThieuTuoc/TiengXuaCuaDuongThieuTuoc-QuynhGiao.pdf (truy cập 14-12-2014).
13. Sóng Việt Đàm Giang. Không rõ ngày. Vài điển tích trong bài nhạc Ngọc Lan của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
saigonocean.com/gocchung/html/ngoclan.htm (truy cập 14-12-2014).
14. Thy Nga. 2005. Nhớ về cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Đăng 1-8-2005.
rfa.org/vietnamese/in_depth/music_DuongThieuTuoc_TNga-20050801.html (truy cập 14-12-2014).
15. Trần Quang Hải. 2004. Lịch sử Tân Nhạc Việt Nam. 24-8-2004.
vietsciences.free.fr/lichsu/lichsutannhacvn1.htm (truy cập 14-12-2014).
16. Western Michigan. Không rõ ngày. The Elements of Music.
wmich.edu/mus-gened/mus170/RockElements.pdf (truy cập 13-12-2014).
17. Wikipedia. 2014a. Dương Thiệu Tước. Thay đổi chót: 20-6-2014.
vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_Thi%E1%BB%87u_T%C6%B0%E1%BB%9Bc (truy cập 14-12-2014).
18. Wikipedia. 2014b. Dương Quý Phi. Thay đổi chót: 6-10-2014.
vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_Qu%C3%BD_Phi (truy cập 14-12-2014).