Thính giả Nguyễn Anh Đức ở Việt Nam hỏi như sau:
“Chào Bác sĩ,
Tôi có câu hỏi về sức khoẻ xin Bác sĩ tư vấn giúp.
Ở Việt Nam hiện nay người mắc bệnh viêm mũi rất nhiều, trong đó có tôi. Tôi điều trị khá lâu nhưng không giảm và ngày
càng cảm thấy nặng hơn. Bác sĩ ở đây chuẩn đoán viêm mũi dị ứng. Triệu chứng sáng thức dậy nhảy mũi (hắt xì), chảy
nước mũi rất nhiều, nghẹt mũi rất khó chịu nhất là vào những ngày trời lạnh.
Toa thuốc tôi đang sử dụng:
1.Haginat 500 (Cefuroxim), ngày uống 02 lần, mỗi lần 1 viên;
2.Telfor 180 (Fexofenadin), ngày uống 02 lần, mỗi lần 1 viên;
3.Prednisolon 5mg (Prednisolone acetate), ngày uống 02 lần, mỗi lần 1 viên.
Xin Bác sĩ tư vấn về bệnh và thuốc uống.
Cảm ơn Bác sĩ nhiều!”
Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:
Tải để nghe hỏi đáp Y học: Viêm mũi dị ứng
http://av.voanews.com/cl...2454784b4f8_original.mp3Viêm mũi dị ứng (allergic rhinitis)Allergy được dịch là dị ứng. (Al (Hy lạp:allos) có nghĩa là khác, lạ, erg (ergon) là hoạt động). Người bị dị ứng phản ứng một
cách khác thường với một chất antigen (kháng nguyên) nào đó, và chất này gọi là allergen, có nghĩa nó gây ra những phản
ứng quá mẫn (hypersensitivity reactions) ở người dị ứng.
Những kháng nguyên (antigen) gây ra phản ứng có thể là phấn bông, mốc meo (mold spores), chất bài tiết của các con rận
li ti ( các con dust mites trong mền chiếu mà ta chỉ có thể thấy bằng kính hiển vi, chất bài tiết của chúng gây allergy), các
vảy li ti của da, lông, và chất bài tiết (animal danders) các thú nuôi trong nhà và luôn cả từ con người cũng là những nguồn
bụi protein trong môi trường; mặt khác các protein này là nguồn dinh dưỡng cho các con "mites".
Allergen tiếp xúc với niêm mạc mũi của những người nhạy cảm (atopic individual), làm cơ thể sản xuất các IgE là những
kháng thể phụ trách dị ứng, huy động các tế bào đến mũi, tiết ra chất histamine, làm mũi sản xuất ra chất nhớt (mucus),
(chảy mũi), sưng (làm nghẹt mũi và ngứa). Nên để ý đến chất histamine này vì những thuốc chống dị ứng sẽ bàn sau có
tác dụng chống histamine.
Những phản ứng này có thể làm tắc nghẽn các đường thoát chất nhớt của các xoang mũi làm người bệnh dễ bị viêm
xoang mũi (sinusitis). Trong tai của chúng ta có một khoảng trống gọi là tai giữa (middle ear) nằm giữa màng nhĩ (tympanic
membrane) và tai trong (inner ear). Có một cái ống nối miệng với hai tai giữa, đem không khí vào tai giữa, giữ cho thoáng
(ventilation). Người bị dị ứng mũi, hai các ống này có thể bị nghẹt lại. Áp suất trong tai giữa giảm xuống làm người bệnh
thấy lùng bùng tai. Hoặc trẻ con có thể dễ bị nhiễm trùng tai giữa (middle ear infection) vì dị ứng mũi cộng thêm các chứng
đi kèm như adenoid (phía sau mũi) hoặc hạnh nhân (tonsils) quá lớn.
Định bệnh: nước mũi trong (không có mủ), niêm mạc trong mũi sưng và tái, mắt chảy nước, đỏ mắt (do dị ứng). Hội bác sĩ
tai mũi họng Mỹ khuyên nên thử dị ứng (thử ngoài da hoăc đo mức kháng thể IgE trong máu), nên tránh chụp X quang nếu
chỉ nghi mũi dị ứng.(1)
Những thuốc trị bệnh này:
1.Hiện nay thuốc hiệu nghiệm nhất là các corticosteroid (corticoit) dưới dạng xịt mũi. Tên thương mại ở Mỹ là Nasonex,
Flonase, Rhinocort, Nasacort. Thường lúc sơ khởi xịt một hoặc hai cái vào mỗi bên mũi, hai ba lần mỗi ngày. Ba bốn ngày
sau, khi triệu chứng đã giảm, bớt lại liều thuốc còn xịt một cái mỗi bên, một lần mỗi ngày. Vì corticoit là một loại thuốc mạnh
và có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng của các em bé, chúng ta nên tránh dùng ở trẻ em quá nhỏ, cẩn thận liều lượng và
đừng dùng quá nhiều vì sốt ruột. Tuy nhiên theo kiến thức hiện nay, thuốc xịt vào mũi không hấp thụ vào máu ở mức đáng
kể và có vẻ an toàn dưới sự giám sát của bác sĩ điều trị. Dùng thuốc lâu dài, quá liều quy định có khả năng thuốc ảnh
hưởng đến mắt, gây cườm mắt (glaucoma, cataract) nhất là ở người già. (2)
Hiện nay thuốc corticoid xịt mũi duy nhất bán không cần toa là Nasacort. (Nasacort OTC)
2.Những thuốc chống histamine (antihistaminic) như Benadryl (diphenhydramine). Benadryl tốt và an toàn cho trẻ con
nhưng có thể gây buồn ngủ và phải uống nhiều lần trong ngày. Một số thuốc mới hơn nhưng đắt tiền hơn (second
generation H1 histamine antagonist), không làm buồn ngủ: Claritin (loratadine), Allegra (fexofenadine), Zyrtec (cetirizine, hơi
buồn ngủ) có thể chỉ cần uống một hai lần mỗi ngày, và trẻ con dùng được. Loratadine ở dạng xy rô, viên tan trên lưỡI, viên
tác dụng 24 giờ, bán tự do ở Mỹ. Tôi đoán là các thuốc này lại càng dễ mua hơn nữa tại Việt Nam, tuy nhiên tên thương mại
có thể khác. Một số thuốc giúp bớt nghẹt mũi (decongestant) như pseudoephedrine và phenylpropanolamine có thể được
dùng thêm lúc cần thiết để cho bệnh nhân bớt khó chịu và dễ thở hơn. Có thể dùng riêng như syrup hoặc viên nhai
Sudafed, hoặc kết hợp với các chất kháng histamine như trong Dimetapp, Claritine D, Allegra D (D là viết tắt của
decongestant).
Một số thuốc nhỏ mũi để bớt nghẹt nhanh chóng như Neosynephrine, Afrin chỉ nên dùng ngắn hạn vì dùng lâu dài sẽ làm
mũi nghẹt nặng hơn nữa vì các mạch máu nở lớn thêm (rebound vasodilation).
3.Thuốc kháng histamine xịt mũi (như Astelin [azelastine], Patanase [olopatadine]), không hữu hiệu bằng các corticoid xịt
mũi, có thể đắt tiền hơn.
4.Một loại thuốc nhỏ mũi an toàn là Cromolyn nasal solution (4%) có thể dùng để ngăn ngừa các triệu chứng, xịt mỗi bên
mũi một, hai cái, 3-6 lần một ngày, nhiều lần nên cũng khá bất tiện.
5.Thuốc chống leukotriene như montelukast (Singulair) đắt tiền, có thể giúp ích trong trường hợp khó trị.
6.Ngoài ra bs có thể thử phản ứng ngoài da (skin tests), đo mức kháng thể IgE tương ứng với những chất nghi là kháng
nguyên (như phấn bông, con gián, chó, mèo, v..v) và nếu thấy cần thiết chích vào da những liều lượng rất nhỏ các kháng
sinh (antigen, như phấn bông, bụi..) qua nhiều tháng, năm để cơ thể người bệnh làm quen với các chất đó và giảm khả
năng dị ứng với chúng.
Những ý niệm trên hy vọng có thể giúp thính giả hiểu những nguyên tắc chung mà BS dùng lúc chữa bệnh dị ứng mũi bằng
thuốc men, và do đó có thể hỏi BS về những điều mình muốn biết.
Bệnh này thường mạn tính, kéo dài. Bệnh có thể chỉ là một phiền toái nhỏ, nếu tránh các chất gây dị ứng (allergen), các nơi
nhiều kháng nguyên (antigens) thì các triệu chứng giảm đi nhiều. Nếu không tránh được, những thuốc chống dị ứng phổ
biến như loratadine (Claritin), cetirizine (Zyrtec)) rẻ tiền và dễ mua tự do, ít phản ứng phụ. Tuy nhiên, những trường hợp
nặng, có biến chứng như viêm xoang, chảy máu mũi liên tục, tái hồi, ảnh hưởng đến giấc ngủ, sự ăn, bú (của các em bé),
cần được bác sĩ chăm sóc theo dõi kỹ lưỡng.Chữa trị có kết quả tốt có thể giúp phẩm chất đời sống thoải mái hơn (không
ngứa ngáy, dụi mũi, hít hà liên miên, không há miệng thở lúc ngủ làm ngủ không ngon, thở bằng miệng (mouth breathing)
có thể làm hô răng (malocclusion), và không phải đợi lúc biến chứng như viêm xoang mũi, viêm tai giữa, mất thính giác mới
cho uống thuốc.
7.Ngoài ra cũng nên để ý tới môi trường sống và tránh những yếu tố gây dị ứng mũi hay làm mũi khó chịu (irritant) như:
vệ sinh nơi nhà ở, phòng ngủ.
thú nuôi trong nhà: chó, mèo, chim (pets),
giường chiếu bụi bặm,
cây kiểng,
chỗ ẩm thấp có thể dễ mốc meo
các chất hóa học, phân bón, xăng nhớt, đồ xịt chùi bàn ghế, thuốc sát trùng
nấu nướng nhiều trong nhà gây khói, các hơi từ chất đốt,
người lớn hút thuốc lá,
garage, xe gắn máy nổ thong với nhà chính.
Những yếu tố môi trường này rất quan trọng trong việc gây ra bệnh hoặc làm bệnh nặng hơn, từ dị ứng mũi cho đến những
bệnh đi kèm như hen suyễn (asthma), viêm phế quản, sưng tai giữa (otitis media).
8.Cefuroxime là thuốc kháng sinh được dùng nếu bác sĩ nghĩ rằng có nhiễm trùng; Prednisone là thuốc corticoid, làm giảm
viêm nhưng cũng có thể gây lở loét bao tử hay ruột, dùng lâu làm giảm sức đề kháng của cơ thể, làm cơ thể giữ nước
nhiều hơn, lên cân. Do đó hiện nay, người ta ưa chọn những corticoid xịt vào mũi, vì loại này không có, hoặc có ít tác dụng
trên toàn thân (systemic effect).
Chúc quý vị thính giả may mắn.
BS Hồ Văn Hiền
___________________
Reference:1.Phác đồ điều trị lâm sàn do Hàn lâm viện Tai Mũi Họng (AAO-HNSF)
Clinical Practice Guidelines
http://oto.sagepub.com/content/152/2/197.full2.http://www.aafp.org/afp/2010/0615/p1440.html
3.(http://www.aaaai.org/ask-the-expert/development-cataracts-glaucoma.aspx)