Tóm lược: Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" được dùng làm quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa một cách hợp pháp qua các sự kiện lịch sử và học thuyết pháp lý, và nói lên tinh thần dân tộc của người miền Nam không có sự đố kỵ tác giả nhạc điệu, Lưu Hữu Phước, là đảng viên cộng sản. Bài hát là một bài quốc ca bất hủ, có giai điệu trầm bổng, hùng hồn, tiết tấu thay đổi, và lời ca có bố cục chặt chẽ, phù hợp với nhạc điệu và dùng chữ hữu hiệu, đượm nét dân tộc, kêu gọi toàn dân Việt Nam nổi dậy bảo vệ non sông và cứu nguy đất nước. "Tiếng Gọi Công Dân" nên được dùng là biểu tượng quốc gia cho Việt Nam, hoặc ít nhất là biểu tượng cho phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam.
Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" là bài quốc ca của Việt Nam trong thời kỳ Quốc Gia Việt Nam (1948-1955) và miền Nam Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa (Đệ Nhất và Đệ Nhị) (1956-1975). Tác giả bài hát này thường được cho là Lưu Hữu Phước, nhưng thực ra bài "Tiếng Gọi Công Dân" chỉ dùng nhạc điệu của bài "La Marche Des Étudiants" do Lưu Hữu Phước viết nhạc, nhưng lời thì do Đài phát thanh Sài Gòn viết lại, khác đến 85% phiên bản tiếng Việt sau này của Lưu Hữu Phước. Sự ra đời của "Tiếng Gọi Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có nhiều chi tiết thú vị, nhất là vì Lưu Hữu Phước là đảng viên đảng cộng sản Bắc Việt trong thời chiến tranh Nam Bắc. Những chi tiết về lịch sử của "Tiếng Gọi Công Dân" sẽ được trình bàu sau.
Tác giả của "Tiếng Gọi Công Dân" gồm có Lưu Hữu Phước về âm nhạc và Đài phát thanh Sài Gòn về lời nhạc. Vì tôi không rõ ai trong Đài phát thanh Sài Gòn viết lại lời nhạc, sau đây tôi chỉ trình bày vắn tắt tiểu sử của Lưu Hữu Phước (Wikipedia 2015h). Tuy nhiên, ta không nên quên sự đóng góp của những người vô danh của Đài phát thanh Sài Gòn.
Lưu Hữu Phước sinh năm 1921 tại tỉnh Cần Thơ. Khoảng cuối thập niên 1930, ông lên Sài Gòn học tại trường Petrus Ký. Vào cuối năm 1939, ông sáng tác bài hát "La Marche des Étudiants," và cùng Mai Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp để làm bài hát chính thức của Câu lạc bộ học sinh. Sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước ra Hà Nội học trường Y - Dược, thuộc Viện Đại học Đông Dương (1940-1944). Thời này, phong trào đấu tranh chính trị của sinh viên Đông Dương rất mạnh mẽ. Lưu Hữu Phước nhanh chóng trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào,
Năm 1944, Lưu Hữu Phước tham gia Việt Minh và được giao phó những nhiệm vụ vận động cách mạng. Sau đó, ông hoạt động với cộng sản Bắc Việt về các lãnh vực văn hóa và âm nhạc. Sau năm 1975, ông làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Âm nhạc (1978-1989), và đảm nhận nhiều chức vụ về văn hóa, giáo dục, và nghệ thuật trong nhóm cầm quyền cộng sản. Ông mất năm 1989 tại Sài Gòn.
Các tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có Tiếng Gọi Thanh Niên, Bạch Đằng Giang, Hồn Tử Sĩ, Giải Phóng Miền Nam (ca khúc đại diện Việt cộng).
Nguyên văn lời bài hát "Tiếng Gọi Công Dân" như sau (Ban 2009):
Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống
Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!
Trong bài này, tôi sẽ trình bày bối cảnh và các diễn tiến lịch sử dẫn đến sự ra đời của "Tiếng Gọi Công Dân" và phân tích các khía cạnh pháp lý về việc ca khúc này được dùng là quốc ca của VNCH. Ngoài ra, như thường lệ, tôi sẽ thảo luận về các khía cạnh của bài hát, nội dung và hình thức. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.
A. "Tiếng Gọi Công Dân" ra đời trong thời kỳ sôi bỏng tại Đông Dương với sự hình thành của quốc gia Việt Nam độc lập Có nhiều tài liệu viết về nguồn gốc của "Tiếng Gọi Công Dân" và các tiền thân của bài hát (Xem, thí dụ như, Bạch 2014; Biển Nhớ; Nguyễn Lưu Viên; Nguyễn Ngọc Huy), và có rất nhiều tài liệu lịch sử về những biến cố và sự kiện xảy ra trong khoảng đầu thế kỷ 20 tại Đông Dương và Việt Nam. Sau đây, tôi sẽ chỉ trình bày vắn tắt các khía cạnh liên hệ đến Lưu Hữu Phước và "Tiếng Gọi Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và VNCH.
Năm 1939 mở đầu thời kỳ dầu sôi lửa bỏng tại Đông Dương và thế giới khi Thế Chiến II bùng nổ. Cuối năm này, Lưu Hữu Phước viết nhạc và Mai Văn Bộ viết lời (tiếng Pháp) "La Marche des Étudiants."
Năm 1941, Lưu Hữu Phước viết lời Việt và đổi tựa bài là "Tiếng Gọi Sinh Viên" hay "Sinh Viên Hành Khúc," được Tổng hội Sinh Viên Đông Dương dùng là ca khúc nghi lễ của Tổng hội. Có tài liệu cho biết Mai Văn Bộ và Nguyễn Thành Nguyên viết lời Việt cho "Tiếng Gọi Sinh Viên" (Nguyễn Lưu Viên).
Năm 1941, Hồ Chí Minh và các đồng chí thành lập Việt Minh là một tổ chức võ trang phục vụ các mục tiêu cộng sản được Tàu cộng giao phó. Vì chủ nghĩa cộng sản bị nguyền rủa bởi các thành phần quốc gia yêu nước, Hồ và các đồng chí gian manh giở trò lừa đảo bằng cách ngụy trang Việt Minh là một tổ chức quốc gia, chống Pháp (Cao-Đắc 2014). Biết bao nhiêu người trẻ tuổi có lòng yêu nước đã bị Việt Minh lừa đảo để tham gia hoặc ủng hộ Việt Minh. Đến khi họ khám phá ra bộ mặt thật của Việt Minh là cộng sản, thì quá trễ vì họ đã dính líu quá sâu vào những hoạt động cộng sản. Do đó, những người trẻ ái quốc này "bị buộc phải hợp tác với đảng cộng sản" (Buttinger 1967, 266). Những chi tiết về Việt Minh và mánh khóe của Hồ và các đồng chí đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích lý do tại sao Lưu Hữu Phước, tác giả của một ca khúc kêu gọi sinh viên nổi dậy cho tổ quốc, sau này gia nhập Việt Minh.
Ngày 11 tháng 3 năm 1945, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập, thu hồi chủ quyền cho toàn quốc Việt Nam. Chính phủ Trần Trọng Kim, thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, mở đường cho một cuộc lấy quyền lực sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945.
Ngay sau khi được thành lập, ngày 8 tháng 5 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim lựa chọn biểu tượng quốc gia, đổi tên nước thành Ðế Quốc Việt Nam và chọn quốc kỳ nền vàng có một quẻ Ly màu đỏ ở giữa. Về quốc ca, có tài liệu cho rằng quốc ca là bản "Việt Nam Minh Châu Trời Ðông" của nhạc sĩ Hùng Lân (Nguyễn Ngọc Huy). Tuy nhiên, theo một số tài liệu, bản "Đăng Đàn Cung," bản quốc ca hoặc nhạc triều đình trước đó, vẫn được dùng là quốc ca (Marr 1995, 121). Trong hồi ký ông, Trần Trọng Kim viết, "Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài 'Ðăng Ðàn' là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy" (Trần 1969, 60-61).
Tuy hiện hữu chỉ trong một thời gian ngắn (Marr 1995, 351-352), chính phủ Trần Trọng Kim có những đóng góp tích cực mở đường cho những hoạt động xây dựng một đất nước hùng mạnh vừa mới được giành độc lập. Oái oăm thay, cộng sản lợi dụng những đóng góp này trong việc cướp đoạt chính quyền bất hợp pháp vào tháng 8 năm 1945 trong cái gọi là cách mạng tháng tám (Cao-Đắc 2014). Dự án đáng nể nhất của chính phủ Trần Trọng Kim là tổ chức giới trẻ và thanh niên. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1945, một nghị định hoàng gia đặt ra một cơ cấu có thứ tự cho các tổ chức thanh niên (Vu 1986, 309-310).
Quan trọng nhất trong các tổ chức thanh niên là tổ chức Thanh niên Tiền Phong (TNTP), được Thống đốc Nam Kỳ Minoda cho phép thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1945 (Marr 1995, 134-135; Nguyễn Ngọc Huy; Wikipedia 2015c). TNTP là một tổ chức thành lập dựa vào mô hình Hướng đạo Việt Nam và Tổng hội sinh viên Đông Dương, và được sự giúp đỡ của chính phủ Trần Trọng Kim dưới sự bảo trợ của Nhật (Wikipedia 2015c). TNTP có hàng vạn thành viên lúc mới thành lập, tích cực tham gia các hoạt động xã hội như tải thương nạn nhân bom đạn, giúp đỡ nạn đói (Marr 1995, 134; Nguyễn Ngọc Huy). Trong dịp lễ tuyên thệ của TNTP vào tháng 7, 1945 tại Sài Gòn, có 50.000 thành viên tham dự. Thành viên của ủy ban lãnh đạo TNTP gồm có Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiếng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, và Lê Văn Huấn (Marr 1995, 135; Wikipedia 2015c). Cộng sản, dưới chiêu bài yêu nước do Việt Minh rêu rao, xâm nhập vào các hội đoàn sinh viên và thanh niên (Marr 1995, 134-135, 217-218; Vu 1986, 309-310), dẫn đến việc TNTP sau này giải tán và nhiều thành viên gia nhập Việt Minh.
Năm 1945, TNTP sửa đổi thêm lời bài hát "Sinh Viên Hành Khúc" và đổi tựa bài thành "Tiếng Gọi Thanh Niên" hay "Thanh Niên Hành Khúc" và dùng bài hát là ca khúc của tổ chức (Wikipedia 2015b). Như sẽ được trình bày sau, vì TNTP là một tổ chức thuộc chính phủ, ca khúc "Tiếng Gọi Thanh Niên" trở thành ca khúc thuộc chính phủ Đế Quốc Việt Nam.
Ngày 7 tháng 12 năm 1947, Quốc Gia Việt Nam được thành lập và có nhiều nội các chính phủ cho tới năm 1955. Nội các chính phủ trong thời Quốc Gia Việt Nam thay đổi nhiều lần, bắt đầu với Nguyễn Văn Xuân (1948-1949) cho đến Ngô Đình Diệm (1954-1955) (Wikipedia 2015a).
Năm 1948, chính phủ Nguyễn Văn Xuân của Quốc Gia Việt Nam chọn bài "Thanh Niên Hành Khúc" làm quốc ca với tên mới là "Tiếng Gọi Công Dân" hay "Công Dân Hành Khúc." Theo Trần Văn Đôn, ông, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim, và Lê Văn Đức "đề nghị thay lá cờ vàng chữ Ly có từ chánh phủ Trần Trọng Kim ra cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng giòng máu dân của ba miền và lấy bài Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước làm Quốc ca vì lời ca hùng hồn" (trích trong Hoàng 2002, 2177). Về Lưu Hữu Phước, Trần Văn Đôn viết, "Lúc đó tôi nghĩ Lưu Hữu Phước cũng như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước chứ chưa phải là một đảng viên cộng sản. Hơn nữa bài ca này đã sáng tác trước ngày Việt Minh lên nắm chánh quyền. Vì vậy mà Đại hội đồng ý chấp thuận đề nghị của chúng tôi" (trích trong sđd.).
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm, bấy giờ là Thủ tướng, tổ chức một cuộc cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Chính thể VNCH được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955. Tháng 3 năm 1956, chính phủ tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội Lập hiến. Sau đó, "Quốc Hội Lập Hiến khai mạc vào tháng 3 năm 1956 và có nhiệm vụ chọn quốc ca và quốc kỳ" (Biển Nhớ). Sau khi xem xét và đánh giá các bài hát gửi cho tuyển chọn, Quốc hội Lập Hiến quyết định không lựa bài mới nào, và "duy trì bài quốc ca mà các chính phủ Nguyễn Văn Xuân và Nguyễn Văn Tâm đã chọn trước đó rồi ra lệnh cho nhân viên Đài phát thanh Sài Gòn sửa lại lời ca" (sđd.). Đài phát thanh Sài Gòn sửa chữa thêm để làm thành bản quốc ca của VNCH với tên gọi "Tiếng Gọi Công Dân" và ca khúc này là quốc ca của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa tại Việt Nam cho tới năm 1975. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" tiếp tục được duy trì là quốc ca của chính thể VNCH cho cộng đồng người Việt hải ngoại sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau đây là lời ca khúc "Tiếng Gọi Sinh Viên" và "Tiếng Gọi Thanh Niên." Tôi chỉ trích phiên khúc gần giống nhất với bài "Tiếng Gọi Công Dân" cho so sánh. Có nhiều phiên bản khác nhau và một bản có thể có nhiều phiên khúc. Độc giả có thể tìm đọc thêm tại các tài liệu khác (Xem, thí dụ như, ConHoiThoConDauTranh 2011; Wikipedia 2015b). Phần in đậm cho thấy những chỗ khác với "Tiếng Gọi Công Dân."
"Tiếng Gọi Sinh Viên":
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
"Tiếng Gọi Thanh Niên":
Này thanh niên ơi, tiến lên đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi đi đi sá gì thân sống
Nhìn non sông nát tan thù nung tâm chí cao
Nhìn muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu đào.
Liều thân xông pha ta tranh đấu
Cờ nghĩa phất phới vàng pha máu
Cùng tiến quét hết những loài dã man
Hầu đem quê hương thoát vòng u ám
Thề quyết lấy máu nóng mà rửa oán chung
Muôn thuở vì núi sông nêu tiếng anh hùng.
Anh em ơi mau tiến lên dưới cờ
Thanh niên ơi quật cường nay đến giờ
Tiến lên cùng tiến gió tung nguồn sống
Cháy trong lòng ta ngàn mớ lửa hồng
VIDEO Trong phần sau đây, cho vắn tắt, tôi dùng "Sinh Viên," "Thanh Niên," và "Công Dân" với các chữ "Tiếng Gọi" hoặc "Hành Khúc" được hiểu ngầm.
Toàn bài "Thanh Niên" có 120 chữ. Trong số này, chỉ có 18 chữ là giống y hệt với bài "Công Dân." Hai phiên bản, do đó, khác nhau 85%. Với mức độ khác nhau quá nhiều, ta có thể coi như lời bài hát được hoàn toàn viết lại bởi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
B. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" dùng làm quốc ca của VNCH một cách hợp pháp và nói lên tinh thần dân tộc của người miền Nam: Sự kiện quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và VNCH được viết bởi một đảng viên cộng sản gây ra nhiều câu hỏi. Theo một số tài liệu, chính Lưu Hữu Phước "từ năm 1949, đã viết thư kịch liệt phản đối mạnh mẽ về việc này" (Bạch 2014). Trong thời chiến tranh Nam Bắc, từ Hà Nội, Lưu Hữu Phước từng lên Đài tiếng nói Việt Nam (Hà Nội) "liên tục bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về việc bài hát Sinh Viên Hành Khúc của ông 'vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục đích khác!' "(sđd.).
Câu hỏi đặt ra là sự chống đối của Lưu Hữu Phước có chính đáng không, và chính phủ VNCH có hành động đúng khi dùng nhạc của một đảng viên cộng sản là nhạc cho quốc ca. Câu trả lời ngắn là sự chống đối của Lưu Hữu Phước hoàn toàn vô giá trị và chính phủ VNCH hành động hợp pháp khi dùng nhạc của ông là quốc ca của VNCH, như được trình bày sau đây.
1. Lưu Hữu Phước đã nhường, hoặc mất, quyền sở hữu ca khúc "Tiếng Gọi Thanh Niên" cho Đế Quốc Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam, và VNCH từ năm 1945:
Có hai khía cạnh pháp lý xác định Lưu Hữu Phước đã mất quyền sở hữu ca khúc "Thanh Niên" và nhạc điệu cho ca khúc "Công Dân" cho Đế Quốc Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam, và VNCH: (1) TNTP là một tổ chức thuộc Đế Quốc Việt Nam, và (2) Học Thuyết Ngăn Chận không cho phép Lưu Hữu Phước phản đối việc dùng nhạc của ông.
Thảo luận về các khía cạnh pháp lý về vấn đề bản quyền của Lưu Hữu Phước ra ngoài phạm vi của bài này, vì nó đòi hỏi tìm tòi về luật bản quyền tại Việt Nam vào năm Lưu Hữu Phước viết nhạc cho bài "La Marche des Étudiants." Ta không rõ lúc bấy giờ có luật bản quyền hay không, và nếu có, các điều luật đó như thế nào. Tuy nhiên, việc đó thực ra không quan trọng, vì cho dù Lưu Hữu Phước có bản quyền lúc ông sáng tác bài "La Marche des Étudiants," ông đã nhường, hoặc mất, quyền đó lại cho Tổng hội Sinh viên Đông Dương và tổ chức TNTP, cũng như nhạc sĩ Văn Cao đã nhường quyền sở hữu ca khúc "Tiến Quân Ca" cho Việt Minh năm 1944.
a, Tổ chức TNTP là một tổ chức thuộc Đế Quốc Việt Nam và do đó ca khúc "Thanh Niên" của tổ chức này thuộc về Đế Quốc Việt Nam.
Vào tháng 7, 1945, một phái đoàn 38 người của TNTP ra Huế để gặp vua Bảo Đại. Bảo Đại phong Phạm Ngọc Thạch, người đứng đầu phong trào TNTP, là đại diện về thanh niên cho chính phủ hoàng gia tại miền Nam (Marr 1995, 135). Chi tiết này rất quan trọng vì nó thiết lập căn bản pháp lý của TNTP: đó là một cơ quan thuộc Ðế Quốc Việt Nam và hoạt động dưới sự bảo trợ của chính phủ Trần Trọng Kim.
TNTP là một tổ chức bán quân sự (paramilitary). Thành viên được huấn luyện dùng vũ khí, mặc đồng phục (áo trắng, quần short sẫm) (Marr 1995, 134, 381), có cờ và ca khúc chính thức ("Thanh Niên"), có quyền cho thẻ căn cước trong một số vùng (Marr 1995, 135). Để có thể hoạt động với phạm vi và thẩm quyền như vậy, TNTP phải có một qui chế hiện hữu chính thức và ngân quỹ dồi dào. Quy chế và tài trợ đó chỉ có thể đến từ chính phủ Trần Trọng Kim của Ðế Quốc Việt Nam. Do đó, những sản phẩm hoặc kết quả của TNTP đương nhiên là thuộc về Ðế Quốc Việt Nam. Vì vậy, khi Lưu Hữu Phước để ca khúc "Thanh Niên" dùng bởi TNTP là ca khúc của tổ chức, ông đã mặc nhiên nhường quyền sở hữu ca khúc đó cho Ðế Quốc Việt Nam, và Ðế Quốc Việt Nam (sau này được thừa kế bởi Quốc Gia Việt Nam và VNCH theo luật thừa kế của các thực thể quốc gia) có sở hữu ca khúc "Thanh Niên" từ lúc TNTP dùng ca khúc này, vào khoảng tháng 7 năm 1945, hoặc sớm hơn.
Cho dù sau này tổ chức TNTP giải tán và gia nhập Việt Minh, sự kiện vẫn rõ ràng là ca khúc "Thanh Niên" đã trở thành tiếng nói của Ðế Quốc Việt Nam vào tháng 7 năm 1945, hoặc sớm hơn, trước ngày Việt Minh cướp chính quyền vào tháng 8, 1945. Ngoài ra, cho dù Lưu Hữu Phước không đồng ý để ca khúc "Thanh Niên" là ca khúc chính thức của TNTP (một giả thiết hầu như không thể có được vì ông nằm trong ban lãnh đạo của tổ chức này), ông đã mất quyền sở hữu ca khúc này qua hành động im lặng và không phản đối của ông khi ca khúc đó được dùng rộng rãi khắp nơi, theo một học thuyết pháp lý trình bày sau đây.
b, "Học Thuyết Ngăn Chận" không cho phép Lưu Hữu Phước phản đối việc dùng nhạc của "Thanh Niên" là nhạc quốc ca VNCH:
Không có tài liệu nào cho thấy Lưu Hữu Phước phản đối việc các tổ chức này dùng ca khúc "Sinh Viên" hoặc "Thanh Niên" là ca khúc nghi lễ của tổ chức trong khoảng thời gian các phiên bản được lưu hành và trình diễn công cộng từ năm 1941 đến năm 1949. (Lưu Hữu Phước chỉ mới bắt đầu phản đối từ 1949.) Sự không phản đối, hoặc im lặng, của Lưu Hữu Phước trước biết bao nhiêu việc dùng công khai nhạc của ông, cho thấy ông đã nhường quyền về nhạc ca khúc này cho công chúng. Do đó, Lưu Hữu Phước đã hoàn toàn mất quyền sở hữu về ca khúc "Sinh Viên" trong khoảng năm 1940-1945. Khi một tác phẩm trở thành tác phẩm cho vùng công chúng, theo luật pháp hoặc do hành động của tác giả (rõ rệt hoặc hàm ý), ai cũng có quyền dùng tác phẩm đó mà không cần phải có sự thỏa thuận của tác giả.
Trong luật pháp, một học thuyết căn bản về việc bị mất quyền lợi là "Học Thuyết Ngăn Chận" (Doctrine of Estoppel). Chữ "estoppel" có nghĩa là bị chặn lại. Người Norman dùng từ ngữ Pháp "estoupail" có nghĩa là nút thùng, lọ (bung) hay nút chai (cork) dùng để ngăn chận cái gì không cho ra (Duhaime). Học thuyết này đã có từ thế́ kỷ 15 xuất pháp từ Anh (sđd.), được đặt ra để tránh bất công do lừa đảo hoặc không phù hợp, thống nhất. Tôi không thể đi sâu vào học thuyết này vì những lý thuyết phức tạp về luật pháp, nhưng có thể trình bày các điểm chính.
Một cách vắn tắt, Học Thuyết Ngăn Chận không cho phép một người chối bỏ cái gì đã được thiết lập là sự thật qua hành động của viên chức tư pháp hay lập pháp, hoặc qua ngay chính hành động của người đó, rõ rệt hoặc hiểu ngầm (Wikipedia 2015e). Khi học thuyết này áp dụng cho các vấn đề về tài sản hoặc sở hữu (kể cả tài sản trí tuệ), thường có ba nhánh dựa vào: im lặng (acquiescence), diễn tả (representation), và lời hứa (promise) (McFarlane 2014, 3). Nhánh dựa vào im lặng có lẽ thích hợp nhất trong trường hợp Lưu Hữu Phước vì ta chưa có bằng chứng rõ rệt cho sự diễn tả hoặc lời hứa của ông với các tổ chức liên hệ, nhưng ta có bằng chứng rõ rệt về sự im lặng của ông.
Học Thuyết Ngăn Chận dựa vào im lặng có thể được giải thích như sau. Khi B làm những hành động dựa vào sự tin tưởng lầm lẫn rằng quyền nào đó của A là thuộc về B; và A, biết đến hành động này của B, giữ im lặng và không đòi lại quyền của mình, thì A bị mất quyền đó nếu B chịu thiệt thòi khi phải trả lại A quyền đó (McFarlane 2014, 3).
Đem vào trường hợp của Lưu Hữu Phước, giả sử ông không có ý định cho Tổng hội Sinh Viên Đông Dương dùng ca khúc "Sinh Viên" hoặc tổ chức TNTP dùng ca khúc "Thanh Niên." (Nếu ông có ý định nhường quyền cho vùng công chúng và để các tổ chức tùy nghi dùng nhạc điệu hoặc ca khúc "Sinh Viên" thì không còn vấn đề bàn cãi nữa.) Tổng hội dùng ca khúc đó dựa vào sự tin tưởng lầm lẫn về quyền của hội là được ông cho phép. Lưu Hữu Phước là thành phần lãnh đạo trong Tổng hội Sinh Viên và TNTP. Do đó đương nhiên ông biết hành động này của hai tổ chức, nhưng ông không phản đối, và giữ im lặng trong suốt những năm từ 1941 (khi Tổng hội Sinh Viên Đông Dương công khai dùng ca khúc "Sinh Viên" là ca khúc nghi lễ của hội), qua năm 1945 (khi tổ chức TNTP dùng ca khúc "Thanh Niên" là ca khúc của tổ chức), qua năm 1948 khi chính phủ Nguyễn Văn Xuân sửa lại lời nhạc và dùng ca khúc "Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam. Sự im lặng của ông là bằng chứng cụ thể cho thấy ông đã nhường quyền sở hữu cho Tổng hội và TNTP, và đã tước ông quyền sở hữu của nhạc điệu trong ca khúc "Thanh Niên" ngay từ năm 1941, hoặc ít nhất là năm 1945. Chỉ đến năm 1949, Lưu Hữu Phước mới bắt đầu phản đối việc ca khúc "Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam. Lúc bấy giờ, mọi việc đã quá trễ. Các tổ chức này không thể trả lại quyền sở hữu đó cho ông vì họ sẽ bị thiệt thòi do sự đầu tư tài chánh, nhân sự, biểu tượng, tiếng tăm cho bài hát. Do đó, Lưu Hữu Phước đã mất quyền sở hữu bài hát và bị ngăn chận đòi lại quyền đó. và lời phản đối của ông trở nên vô giá trị. Tám năm trời im lặng là một khoảng thời gian quá dài.
Tuy Học Thuyết Ngăn Chận là học thuyết mới, các lý lẽ pháp luật và nguyên tắc công bằng hiện hữu từ hàng trăm năm. Vì không có vụ kiện nào liên hệ đến vấn đề này, ta không rõ tòa sẽ xử thế nào; nhưng điều chắc chắn là nếu có, một tòa án công minh sẽ dùng các nguyên tắc công bằng.
Vì nhạc điệu của "Thanh Niên" của Lưu Hữu Phước đã thuộc về Đế Quốc Việt Nam qua sự im lặng của ông, VNCH có quyền dùng nhạc điệu đó mà không cần sự thỏa thuận của ông. Ngoài ra, quốc gia VNCH có bản quyền trên lời ca "Công Dân" vì lời ca khác hẳn lời ca của "Thanh Niên" đến 85%. Do đó, sự phản đối của Lưu Hữu Phước sau này về nhạc điệu của "Công Dân" hoàn toàn vô giá trị, và lại còn vô giá trị hơn với lời ca.
2. Quốc Gia Việt Nam và VNCH không hề đạo nhạc của Lưu Hữu Phước vì tên ông luôn luôn được ghi nhận rõ rệt:
Một số người cộng sản kết tội một cách ngu xuẩn là chính phủ VNCH ăn cắp nhạc của Lưu Hữu Phước cho bài quốc ca. Những lời kết tội này không những vô căn cứ theo lịch sử nguồn gốc bài hát như trình bày ở trên, mà còn phản ảnh sự kém hiểu biết về ăn cắp văn chương và đạo văn.
Ăn cắp văn học hoặc văn chương (literary theft) là một hành động ăn cắp tác phẩm văn học của người khác. Ăn cắp văn học cũng có thể gọi là đạo văn (plagiarism), mặc dù ăn cắp văn học có thể có một phạm vi rộng hơn so với đạo văn. Trên thực tế, ăn cắp văn học và đạo văn được dùng thay thế lẫn nhau. Đạo văn tránh chữ "ăn cắp" hay "đánh trộm" nhưng nó có cùng nghĩa. "Plagiarism" có gốc từ chữ "plagiarus," một chữ Latin có nghĩa là "bắt cóc nô lệ" (Pappas 1998, 31). Các hành vi đạo văn tương tự như hành vi bắt cóc, hoặc ăn cắp, công trình người khác. Có nhiều định nghĩa cho đạo văn từ một số nguồn tài liệu (Xem, thí dụ như, Johnson, 1755, trích dẫn trong Mallon 1989, 11; từ điển tiếng Anh Oxford, trích dẫn trong Stearns 1999, 17; Stearns 1999, 7; Wikipedia 2015g). Đại khái, đạo văn là "cố ý lấy tài sản văn học của người khác mà không ghi công và mạo nhận nó là của riêng mình" (Stearns 1999, 7). Điểm chính của đạo văn là "mạo nhận là của chính mình" hay "trình bày như của chính mình," nghĩa là tạo ấn tượng cho người khác khiến họ tưởng thủ phạm là tác giả.
Đạo văn là một khái niệm đạo đức hay luân lý hơn là một khái niệm pháp luật. Tại Hoa Kỳ, không có luật liên bang chống lại hành vi ăn cắp văn học hoặc đạo văn. Các tổ chức tư nhân hoặc công cộng (thí dụ, cơ quan giáo dục, trường học) có thể đặt ra các quy tắc riêng và biện pháp kỷ luật đối với hành vi đạo văn dưới khuôn kh̀ổ của các tổ chức đó. Ngoài ra, đạo văn và vi phạm bản quyền là hai khái niệm khác nhau. Đạo văn có thể hoặc không thể dẫn đến vi phạm bản quyền, và ngược lại.
Thông thường, đạo văn dính líu chỉ vài đoạn văn, và nhiều khi chỉ vài câu. Một trường hợp đạo văn trở thành toàn diện hay tột độ là khi kẻ đạo văn ăn cắp toàn bộ tác phẩm của người khác và xưng là của mình. Trường hợp này rất hiếm có vì mức độ gian xảo cực độ và rất ít có người nào mặt dầy mặt dạn dám có gan làm những chuyện kinh khủng như vậy. Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại, có một kẻ đã làm chuyện đó. Đó là Hồ Chí Minh. Hồ đạo văn toàn diện ít nhất ba văn bản: "Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" (Xem, thí dụ như, Quinn-Judge 2002, 18), "Bản Án Chế độ Thực Dân Pháp" (Xem, thí dụ như, Thụy 2012, 560-562), và "Nhật Ký Trong Tù" (Xem, thí dụ như, Lê 1990). Có thể cái "văn hóa đạo văn" này đã thấm nhuần trong thành phần cộng sản theo gương Hồ, nên nhiều người cộng sản tưởng ai cũng như họ, kết tội chính phủ VNCH đạo nhạc của Lưu Hữu Phước.
Quốc Gia Việt Nam và VNCH không hề mạo nhận tác giả, hoặc tạo ấn tượng cho người khác khiến họ tưởng tác giả quốc ca là người đang phục vụ trong miền Nam. Ngược lại, Quốc Gia Việt Nam ngay từ thời chính phủ Nguyễn Văn Xuân năm 1948 và VNCH luôn luôn ghi rõ tác giả ca khúc "Công Dân" là Lưu Hữu Phước. Việc ghi rõ tên tác giả Lưu Hữu Phước cho thấy Quốc Gia Việt Nam và VNCH không ăn cắp nhạc hoặc đạo nhạc của Lưu Hữu Phước. Không những thế, chính phủ VNCH lúc nào cũng cho Lưu Hữu Phước cái danh dự là tác giả của quốc ca VNCH cho dù ông chỉ là tác giả của nhạc điệu và không phải là tác giả của lời nhạc. Về việc bản quyền, như đã trình bày trên, cho dù Lưu Hữu Phước có bản quyền, ông đã bị mất bản quyền này và nhường quyền lại cho VNCH.
3. Việc dùng nhạc của Lưu Hữu Phước cho quốc ca của VNCH cho thấy tinh thần dân tộc của người miền Nam Việt Nam đối với toàn dân Việt:
Miền Nam không thiếu nhân tài viết nhạc cho quốc ca, như đã được chứng tỏ qua kho tàng nhạc vàng vô giá tại miền Nam trước năm 1975. Chính phủ Nguyễn Văn Xuân, Quốc hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa, và chính phủ Đệ Nhị Cộng Hòa không câu nệ sự kiện tác giả nhạc điệu của bài quốc ca là người ở "phe bên kia" mà vẫn tiếp tục dùng nhạc điệu này, vì lúc ông sáng tác bản nhạc, "Lưu Hữu Phước cũng như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước chứ chưa phải là một đảng viên cộng sản" (trích lời Trần Văn Đôn, trong Hoàng 2002, 2177). Điều đó cho thấy người miền Nam không có sự đố kỵ, hận thù, lòng dạ nhỏ nhen, mà ngược lại còn cho thấy tinh thần dân tộc và thương yêu đồng bào. Tinh thần dân tộc này thể hiện bản chất nhân bản, khai phóng, và yêu thương đồng bào, không phân biệt Nam Bắc, của người miền Nam không cộng sản.
Ngược lại, chắc chắn nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt không bao giờ dùng nhạc viết bởi nhạc sĩ của Quốc Gia Việt Nam hoặc VNCH, cho dù những bài đó không dính dáng gì đến chính trị hoặc đả kích cộng sản. Lòng dạ nhỏ nhen, bụng tiểu nhân, mặc cảm tự ti, và đầu óc chia rẽ hận thù của nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã được biết rõ khi chúng cấm đoán nhạc miền Nam ngay cả sau khi chúng chiếm đoạt được miền Nam năm 1975.
Ta cũng nên hiểu Lưu Hữu Phước có thể bị nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt bắt buộc lên tiếng phản đối, vì khó tin một nhạc sĩ, thay vì hãnh diện, lại có thái độ bực bội việc tác phẩm mình được dùng cho một mục đích cao cả là quốc ca của một quốc gia. Ngoài ra, Lưu Hữu Phước lên tiếng phản đối vào năm 1949, khi Ngô Đình Diệm chưa làm Thủ tướng, và Mỹ chưa đặt chân lên miền Nam. Do đó, bảo rằng Lưu Hữu Phước phản đối vì miền Nam phục vụ đế quốc Mỹ là hoàn toàn sai lầm.
Sửa bởi người viết 15/05/2015 lúc 10:52:22(UTC)
| Lý do: Chưa rõ