Xã hội Việt Nam hiện nay có nhiều khuyết tật, nhưng hai khuyết tật chính, theo tôi, có ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng
nhất đối với sự phát triển của đất nước là: Một, sự vô trách nhiệm của các cán bộ, kể cả các cán bộ lãnh đạo; và hai, sự
vô cảm của dân chúng, kể cả các thành phần trí thức.
Đã có nhiều người viết và nói về sự vô cảm của dân chúng. Nói một cách tóm tắt, sự vô cảm ấy có ba biểu hiện chính.
Thứ nhất, vô cảm trước những đau khổ của người khác. Đã đành ở Việt Nam vẫn có những người quan tâm đến dân oan,
đến những người bệnh tật và nghèo khổ trong xã hội. Nhưng rõ ràng đó chỉ là thiểu số, một thiểu số cực kỳ ít ỏi. Còn đại
đa số thì vẫn dửng dưng. Tai nạn xảy ra ngoài đường: người ta dửng dưng. Vô số người không có đủ cơm ăn, áo mặc:
người ta dửng dưng. Bao nhiêu người bị chà đạp: người ta dửng dưng. Hình ảnh tiêu biểu nhất cho loại dửng dưng này
là các youtube ghi hình ảnh một số học sinh bị bạn bè đánh đập một cách tàn nhẫn: Tất cả những người chung quanh
đều yên lặng đứng nhìn, không có chút nỗ lực can thiệp hay thậm chí, cũng không bày tỏ một thái độ nào cả. Họ nhìn một
cách hờ hững như không có chuyện bất bình thường nào đang xảy ra ngay trước mắt mình cả.
Thứ hai, vô cảm các các tệ nạn trong xã hội. Ai cũng biết xã hội Việt Nam đầy những tệ nạn. Tệ nạn từ trong nhà đến
trường học và ngoài xã hội. Tuy nhiên số người thực sự quan tâm rất ít. Thấy kết quả điều tra của quốc tế về chất lượng
sống, ở đó, Việt Nam bị xếp vào dưới đáy cùng của thế giới, thậm chí, còn thua cả Campuchia và Lào, cũng không có
mấy người động lòng. Mỗi người hầu như chỉ nhìn vào sự thành công hay thất bại của bản thân mình, còn tệ nạn xã hội
nói chung là thuộc về trách nhiệm của những ai khác.
Thứ ba, vô cảm trước tình hình của đất nước. Ở đây lại có nhiều khía cạnh. Kinh tế Việt Nam càng lúc càng sa lầy trong
nợ nần: người ta mặc kệ. Giáo dục Việt Nam càng ngày càng xuống dốc: người ta mặc kệ. Văn hoá càng lúc càng suy
thoái: người ta mặc kệ. Đạo đức càng ngày càng suy đồi: người ta mặc kệ. Quan trọng nhất, Việt Nam càng ngày càng
đối diện với nguy cơ bị Trung Quốc xâm lược: người ta cũng mặc kệ. Tất cả những thái độ mặc kệ ấy có một cái tên
chung: sợ chính trị. Ai cũng né tránh chính trị. Người ta phó thác chuyện chính trị, từ đối nội đến đối ngoại, cho chính phủ
và đảng cầm quyền. Người ta thừa biết chính phủ và đảng cầm quyền cũng đang bế tắc, không tìm ra một phương
hướng hay sách lược nào để giải quyết cả, người ta vẫn bất chấp.
Tôi có khá nhiều bạn bè thuộc giới trí thức trong nước. Hỏi chuyện, ai cũng biết tất cả những nguy cơ mà Việt Nam đang
đối diện, trong đó có cả nguy cơ mất nước, nhưng hầu như ai cũng chỉ thở dài ngao ngán: Trung Quốc bây giờ mạnh quá,
làm sao chống lại được? Rồi thôi. Người ta xem đó như những chuyện không thể tránh khỏi. Và vì không thể tránh khỏi,
chúng cũng không còn là vấn đề nữa. Sau đó, người ta an tâm tập trung hết tâm trí vào việc kiếm sống. Chuyện nước non
như thuộc về ai khác.
Dân chúng như thế, còn cán bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo thì sao? Thì ở đâu cũng thấy một điều: Vô trách nhiệm.
Biển hiện đầu tiên của tinh thần vô trách nhiệm ấy được nhìn thấy trong công việc làm hàng ngày của họ. Ví dụ gần đây
nhất là những chuyện liên quan đến cây xanh ở Hà Nội. Thành phố chủ trương chặt hơn 7000 cây xanh mà không hề
nghiên cứu cẩn thận những cây nào là đáng chặt. Đến lúc dân chúng phản đối kịch liệt, người ta mới dừng lại. Sau đó,
trồng cây thế. Hứa trồng cây vàng tâm nhưng thực tế lại trồng cây mỡ, một loại cây rẻ tiền hơn. Cũng chưa hết. Sau trận
dông lốc vừa rồi làm hàng ngàn cây bị bứng gốc đổ nhào, người dân mới phát hiện rễ những cây mới trồng còn để
nguyên cả bao ny lông chung quanh. Đến lúc dân chúng tố cáo, người ta mới lén lút để cào đất và cắt các bao ny lông ấy
ra. Tất cả diễn tiến chặt cây rồi trồng cây ấy cho thấy điều gì? – Sự vô trách nhiệm. Không phải chỉ những người thợ chặt
cây hay trồng cây vô trách nhiệm mà cả giới lãnh đạo của họ, thậm chí, lãnh đạo của cả thành phố cũng vô trách nhiệm.
Những hành động vô trách nhiệm ấy xuất hiện ở khắp nơi: xây đường thì chỉ vài tháng, hay có khi, vài tuần là bị sụp lún.
Trồng trụ điện thì không có cốt sắt nên cứ gặp gió lớn là bị đổ. Dây điện treo lằng nhằng và lòng thòng ngay trên đầu dân
chúng cũng không ai để ý.
Nhưng nguy hiểm nhất là thái độ vô trách nhiệm đối với đất nước. Trong cái gọi là đất nước ấy, khía cạnh quan trọng nhất
là độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ; trong khía cạnh ấy, yếu tố nòng cốt là các hiểm hoạ đến từ Trung Quốc.
Chỉ nêu các sự kiện gần đây nhất làm ví dụ. Đó là việc Trung Quốc cho bồi đắp các bãi đá ngầm hoặc rạn san hô làm
đảo nhân tạo. Việt Nam phản ứng ra sao? Cũng chỉ là những lời phản đối lấy lệ của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao. Ngay
trên diễn đàn cuộc đối thoại Shangri-la ở Singapore vừa rồi, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cũng không
tham dự. Chỉ có Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh hiện diện. Nhưng ông Vịnh cũng không phát biểu gì cả. Ông chỉ làm một
việc như ông tự nhận là “lắng nghe”. Như những diễn biến mới nhất liên quan đến cuộc tranh chấp ở Biển Đông là thuộc
trách nhiệm của ai khác.
Theo dõi tin tức từ báo chí những tháng gần đây, người ta thấy rõ quốc gia có phản ứng gay gắt nhất trước hành động
xây đảo nhân tạo ở Trường Sa chính là Mỹ. Cho máy bay vờn qua vờn lại chung quanh các hòn đảo nhân tạo ấy là Mỹ. Tố
cáo và phản đối âm mưu xây đảo nhân tạo ấy của Trung Quốc cũng là Mỹ. Vận động dư luận thế giới, đặc biệt các quốc
gia thuộc nhóm G7, để mọi người thấy rõ âm mưu của Trung Quốc cũng lại là Mỹ. Việt Nam, từ trước đến sau, giữ một
sự im lặng rất khó hiểu.
Dường như nhà cầm quyền Việt Nam xem chuyện mang Trung Quốc ra các toà án quốc tế là trách nhiệm của Philippines
và lên án các hành động xây dựng đảo nhân đạo trái phép ở Trường Sa là nhiệm vụ của Mỹ. Giới chức Việt Nam thì chỉ
khoanh tay đứng nhìn.
Khoanh tay thật ra cũng là một hình thức bó tay.
Bó tay ngay cả trước khi nỗ lực làm một cái gì đó là một sự bó tay rất vô trách nhiệm.
Theo Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc (VOA)