Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường!
Đó là một sự thật! Cũng là lời di huấn cuối cùng của Đức Bổn Sư dành cho chúng ta trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ Kinh:
“Này các tỷ kheo, Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường, hãy tinh tấn chớ có phóng dật.”
Là người con Phật chúng ta cần suy nghiệm cho thật kỹ về lời di huấn tối hậu này của bậc từ Phụ.
Sự thật Vô Thường này là đương nhiên, đang phơi bày chính nó, ngay trước mặt của chúng ta, 24/7, không có gián đoạn, ngay cả lúc ta đang
ngủ.
Vô thường không bị chi phối bởi thời gian, tức là tất cả Pháp vô thường trong cả ba thời: quá khứ, hiện tại, và tương lai.
Vô thường không bị giới hạn trong không gian, tức là cả vũ trụ này vô thường, cả thiên giới, ma giới, và nhân giới đều vô thường.
Ngay cả thân ngũ uẩn của ta cũng vô thường: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường.
Vô thường là sự thật không phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta, tức là dù chúng ta có nhận ra, hay không nhận ra, điều đó không thay đổi
được gì về sự thật này: Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường. Nhưng nếu ta tinh tấn, không phóng dật, hành trì lời di huấn của Đức Từ Phụ,
tác ý thật sâu để nhận ra và sống đúng với quy luật vô thường thì chúng ta sẽ bớt khổ. Vì thế hãy đến để thấy đúng như thật như vậy sự thật
này: “Vô Thường.”
Vô thường là một sự thật, tuy hiển nhiên như vậy, nhưng không phải ai ai cũng có nhận thức sâu sắc về điều đó. Độ sâu của nhận thức vô
thường này tùy thuộc vào công phu tu tập của từng người.
Kết quả của việc làm cho sung mãn nhận thức vô thường này thật to lớn, không thể nghĩ bàn:
Phật dạy trong Kinh Tương Ưng Bộ về lợi ích đó như sau:
“Này các Tỷ-kheo:
-- Do tu tập, làm cho sung mãn nhận thức về vô thường một cách sâu sắc, tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả tham đắm về tất cả các hình
tướng được chấm dứt, tất cả khao khát hiện hữu cảnh giới này cảnh giới kia được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn
được tận trừ.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người làm ruộng, vào mùa thu, dùng một cái cày lớn cắt đứt tất cả rễ mọc trong khi cày. Cũng vậy, này các Tỷ-
kheo, do tu tập, làm cho sung mãn nhận thức về vô thường, tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt, tất cả hữu tham
được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ.”(ngưng trích)
Trong ví dụ trên, nhận thức về vô thường được dụ như lưỡi cày lớn và sắc bén, có thể cắt đứt tất cả rễ cây trong khi cày. Trong ví dụ này, rễ
cây ví dụ cho khát ái, vô minh, và ngã mạn; hành động cày bừa dụ cho công phu tu tập. Còn “nhận thức vô thường” chính là lưỡi cày. Cũng
giống như chiếc cày là dụng cụ không thể thiếu của người nông dân, như vậy nhận thức sâu sắc về vô thường là một “dụng cụ” không thể thiếu
của người tu.
Như vậy chúng ta cần phải tu tập, rèn luyện nhận thức về vô thường như thế nào, để làm cho lưỡi cày ngày càng sắc bén? Làm thế nào để cho
sung mãn “nhận thức vô thường” khiến cho tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ?
Nhận thức Vô thường về Pháp có hai loại:
1. Nhận thức về vô thường của các hiện tượng thế gian bên ngoài.
2. Nhận thức về vô thường của tự thân bên trong, tức là ngũ uẩn, năm khối cấu tạo nên con người.
Nhận thức về vô thường của hiện tượng thế gian bên ngoài là kết quả của sự quan sát tinh tế (chủ quan) kết hợp với tư duy hợp lý, để đưa đến
kết luận về sự vô thường của thế giới hiện tượng. Nhận thức này được xếp vào Tư Tuệ trong Tam Tuệ của Văn Tư Tu.
Nhận thức về vô thường của tự thân bên trong, tức là ngũ uẩn, chính là gốc rễ của sự tu hành. Vì một khi Ngũ Uẩn, và đặc biệt hơn hết chính ý
thức, cũng được nhận ra một cách sâu sắc là vô thường thì đối tượng của ý thức, tức là thế giới hiện tượng, không thể nào được xem là
thường hằng được.
Như vậy đối tượng chính để rèn luyện, làm cho sắc bén, làm cho sung mãn nhận thức vô thường chính là tự thân bên trong chứ không phải là
thế giới hiện tượng bên ngoài.
Vì sao? Vì “thế giới hiện tượng” là thế-giới-hiện-ra-của-những-hình-tượng ( hay là thế giới khái niệm) cho tự thân kinh nghiệm. Thế giới hiện ra
là do tự thân, cho tự thân, và vì tự thân. Khi tự thân còn thì thế giới còn. Khi tự thân diệt, thì thế giới diệt. Một khi tự thân ngũ uẩn được nhận ra
là vô thường, là rỗng không, là không thực chất tính, thì thế giới cũng vì thế tương ưng.
Sự vô thường của tự thân ngũ uẩn có hai khía cạnh cần phải nhận ra rõ ràng rốt ráo ngay trong sát na đang là của chính nó:
1. Nhận ra sự sanh khởi ngay trong sát na đang là của chính nó
2. Nhận ra sự đoạn diệt ngay trong sát na đang là của chính nó
Phàm cái gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt! Sanh Sanh Diệt Diệt: Đó chính là vô thường!
Để thiết lập nhận thức sâu sắc về sự vô thường của tự thân thì: Đối với từng uẩn một trong năm uẩn, ví dụ đối với sắc uẩn, chúng ta cần bình
thản, chân chánh nhận rõ:
1. Đây là Sắc.
2. Đây là Sắc tập khởi.
3. Đây là Sắc đoạn diệt.
Tương tự như vậy đối với Thọ, Tưởng, Hành, và Thức:
1. Đây là Thức.
2. Đây là Thức tập khởi.
3. Đây là Thức đoạn diệt.
Chúng ta cần để ý đến cấu trúc câu “Đây là…X” của Phật dạy. “Đây là...X” chỉ có ý nghĩa nếu nó được nhận diện trong sát na đang là của X.
Bằng không cấu trúc câu sẽ mất đi ý nghĩa “như thật- như vậy” của nó và không còn có tính chất phơi bày như một sự thật mà chỉ trở thành
một thói quen lầm bầm “Đây là…X”, “Đây là…X” một cách máy móc.
Nếu “nhận thức về vô thường” được tu tập như vậy ngay trên tự thân, được làm cho sung mãn như vậy ngay trên tự thân ngủ uẩn, thì “tất cả
dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt; tất cả hữu tham được chấm dứt; tất cả vô minh được chấm dứt; tất cả ngã mạn
được tận trừ.” Tức là đúng như lời dạy của Đức Phật Thích Ca.
Phật Tử làm được như vậy và vị Thừa Tự Pháp, làm cho Chánh Pháp được trường tồn ở thế gian, là con Phật. Là người thi hành đúng Di Giáo
của đức Từ Phụ.
Nguyện cho chánh pháp của thế tôn luôn được gìn giữ trong đời sống hàng ngày của từng người Phật Tử vì hạnh phúc thực sự và an lạc thực
sự cho muôn loài.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tô Đăng Khoa