Hình như từ khi có người Việt thì đã có người Hoa rồi.
Theo sử sách Trung Quốc thì Việt cũng từ Hoa mà ra, từ Trung Quốc di cư về Nam, hoặc là người Minh là những kẻ thua cuộc, lánh nạn nhà Thanh mà ồ ạt đến Việt Nam.
Chẳng lấy làm lạ, không ở đâu là vắng bóng người Hoa, đến đỗi người ta nói: “Ở đâu có khói, thì ở đó có người Hoa!” Và ở đâu, họ cũng làm nghề buôn bán, từ lớn như một cửa hàng tạp hóa hay vải vóc, đến một xe mì gõ, một gánh chè “lục tào xá,” gánh ve chai hay một bình lạc rang. Thời thơ ấu, ở một tỉnh nhỏ miền Trung, tôi vẫn thường nghe cha mẹ nói đến việc người Hoa buôn bán ngay thẳng, không gian lận, giả dối, biết giữ chữ tín.
Người Việt Nam, tuy vì hoàn cảnh xã hội, phải sống chung với các sắc dân khác, nhưng không bỏ dược tinh thần kỳ thị, có khi mình không hơn ai nhưng vẫn tỏ ra lòng khinh rẻ người khác. Tây Mỹ hay dân tộc thiểu số đều được gọi bằng “thằng,” thằng Tây, thằng Mỹ, thằng Mọi “cà lơ.” Đen thì ví là “cột nhà cháy,” trắng thì gọi là “bạch quỷ,” mũi người ta cao hơn mình thì gọi là “thằng mũi lõ.”
Đối với người Hoa, dù đã sống đời trên đất Việt từ lâu, vẫn bị gọi là Chú Chệt, Ba Tàu. Cứ nhìn qua các thành ngữ hay văn chương bình dân, chúng ta thấy người Việt ít có lòng tôn trọng đối với người Hoa. Nói bậy thì gọi là “nói Tiều nói Quảng,” tử tế, đàng hoàng thì bị chê là “quân tử Tàu,” nói loanh quanh thì bị cho là “vòng vo Tam Quốc,” trước sau bất nhất thì bị coi là “đầu Ngô, mình Sở,” mỉa mai hơn nữa là thành ngữ “dáo Tàu đâm Chệt…”
Tuy vậy, gần cả thế kỷ nay, lớn lên tôi chưa nghe ai nói đến chuyện ghét Trung Quốc.
Cách đây một thế kỷ, người Hoa ở Việt Nam còn nói tiếng Hoa, giữ phong tục của họ như tục phụ nữ bó chân, đàn ông đuôi sam. Tuy có buôn bán sinh hoạt với người Việt nhưng người Hoa có hệ thống sinh hoạt cộng đồng riêng biệt chặt chẽ, như bang, hội, có trường học, rạp hát, đình chùa mang bản sắc Trung Hoa, các bảng hiệu, tiệm buôn mang đầy chữ Hán.
Ở trên cùng một đất nước, chịu bao nhiêu nghịch cảnh chiến tranh, bom đạn, chia lìa, tôi thấy chẳng bao giờ ghét người Hoa.
Bản sắc người Hoa ở Việt Nam phai nhạt dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, khi chỉ một tháng sau ngày nền Cộng Hòa được thành lập, thủ tướng đã ban hành Dụ số 10, tiếp theo sau đó là Dụ số 48 quy định về Bộ Luật Quốc Tịch Việt Nam. Trong đó, điều 12 ghi rõ: “Tất cả những ai gốc Hoa sinh ra ở Việt Nam đều bắt buộc phải nhập Việt tịch, để được có quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam, hoặc nếu không chịu nhập tịch thì có thể xin hồi hương (về Đài Loan) trước ngày 31 Tháng Tám, 1957.” Điều này có nghĩa là từ đây, người Hoa cũng phải đóng góp xương máu để bảo vệ miền Nam.
Người Hoa phải Việt hóa tên họ, kể cả bí danh, trong những văn kiện chính thức. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa, phải được viết bằng Việt ngữ.
Dụ 53 chỉ định chín nghề huyết mạch của nền kinh tế, mà ngoại kiều, hay các hội xã, công ty ngoại quốc không được hoạt động.
Phản ứng lại, các thế lực Trung Hoa trong và ngoài nước tẩy chay sản phẩm Việt Nam, và cả hàng hóa Mỹ ở Việt Nam, người Hoa ồ ạt rút hết tiền ký thác trong các ngân hàng, đồng tiền Việt Nam bị mất giá thị trường chứng khoán Hồng Kông, Hồng Kông từ chối nhận 40,000 tấn gạo mặc dù đã ký hợp đồng từ trước.
Không phải riêng Việt Nam, tại các nước Đông Nam Á, người Hoa ở đâu cũng dùng sức mạnh đồng tiền để thao túng thị trường, chuyên hối lộ và khuynh đảo các viên chức hành chánh tham nhũng, đóng thuế cho cả hai bên để thủ lợi và được yên thân.
Đến cuối năm 1974, người Hoa ở miền Nam Việt Nam kiểm soát hầu hết các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như độc quyền thương mại, xuất nhập cảng.
Tuy vậy, cuối cùng người Hoa cũng thúc thủ, dần dần đồng hóa với người Việt, nhiều người gốc Hoa, nhưng không nói nổi một câu tiếng Tiều, tiếng Quảng.
Người Hoa tại Việt Nam trở thành công dân Việt, được gọi là “người Việt gốc Hoa” từ đó cũng làm bổn phận công dân, đóng thuế, đi lính. Trong cuộc chiến chống Cộng Sản họ bị động viên ra chiến trường, tuy người Hoa có nhiều “lính ma, lính kiểng,” nhưng cũng cùng hoàn cảnh, không thấy ai ghét người họ.
Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, khi Việt Cộng chiếm miền Nam, Chợ Lớn là nơi tập trung nhiều người Hoa, một sớm một chiều, họ giương cờ đỏ Trung Quốc rợp trời, thời VNCH họ là người Hoa Đài Loan, thời Cộng Sản vào miền Nam, họ người Hoa Đại Lục, thì phải treo cờ Trung Quốc, hy vọng sẽ được chính quyền Bắc Kinh bao bọc.
Sợ lòng dạ Trung Quốc, và lực lượng người Hoa ở Chợ Lớn, coi như đạo quân thứ năm, và những người trong ruột con ngựa thành Troie, cuối cùng, cờ Trung Quốc phải được dẹp bỏ, người Hoa, nhất là tại Chợ Lớn, phải chịu chiến dịch trưng dụng tước đoạt tài sản của người giàu có, bắt bớ, cầm tù họ, mệnh danh là công cuộc “cải tạo công thương nghiệp” của những người thắng cuộc. Người Hoa cũng như người Việt ở miền Nam đã chịu ba lần đổi tiền tàn độc, vơ vét hết tài sản, trở thành trắng tay. Việt Cộng cũng dẹp hết tổ chức bang, hội của người Hoa. Cho đến năm 1978, khoảng 30,000 doanh nghiệp lớn nhỏ của người Hoa bị quốc hữu hóa, 250,000 ngàn người Hoa chạy sang Trung Quốc, năm 1979, qua biên giới phía Bắc, chúng ta gọi sự kiện này là nạn kiều. Người Hoa bị ép buộc trở về Trung Quốc, mặc dù cha ông họ qua Việt Nam đã nhiều đời, sinh đẻ ở đây, không còn liên lạc với dòng họ bên Trung Quốc, không biết tiếng Hoa, làm sao để trở về được, nhiều người thất vọng, tự sát.
Trước năm 1975, chúng ta có phiền hà chuyện người Hoa thao túng kinh tế miền Nam và mua chuộc nhiều quan chức trong chính phủ, nhưng thực tế không ai thù ghét họ, và sau năm 1975, họ cùng người Việt ở miền Nam là nạn nhân của Cộng Sản Bắc Việt. Họ cùng bị tù đày, phân biệt đối xử, cùng nhau xuống tàu vượt biển, nên cũng chẳng ai ghét người Hoa. Ở trong nhà tù Cộng Sản, chúng tôi gặp nhiều người gốc Hoa thuộc diện “phục quốc,” cũng không thiếu anh em người Hoa trong quân đội, đảng phái phải chịu cảnh tù đày.
Nhưng 40 năm qua, tình hình thay đổi rất nhiều, Trung Quốc, một kẻ đàn anh từng ra ơn cho Việt Cộng, từ xe tăng, súng đạn đến đôi dép râu, bánh lương khô, không thể nào để cho đất nước này thoát khỏi vòng tay của chúng, thường xách mé, miệt thị Việt Nam Cộng Sản là kẻ vô ơn, cần cho một bài học. Đảng Cộng Sản ngày nay không đủ sức mạnh, không có sự liên kết nào có thể đương đầu, không có trí tuệ, tỏ ra hèn nhát, quỵ lụy, để mất đảo, cho thuê đất thuê rừng với giá rẻ như cho không. Đảng Cộng Sản Việt Nam bị Trung Quốc lấn lướt, ngư dân bị đốt tàu, làm nhục, giới quân sự cũng bị đe dọa tránh xa vùng đất Trung Quốc chiếm cứ. Ngay cả trong hải phận của Việt Nam, người Hoa vẫn chủ động lấn lướt coi như đó là sân sau của chúng, coi dân Việt như như đứa con hư, một loại “nghịch tử” đòi phải “hồi đầu!”
Mặt khác, hàng hóa, thực phẩm Trung Quốc đầu độc cả thế giới, và nông dân Trung Quốc có tiền, thời mở cửa, đã gây ra một làn sóng du lịch vô văn hóa, từ cái ăn, đến cái ỉa, làm cho thế giới khinh miệt, coi rẻ. Người Việt trong nước và cả hải ngoại, trước tình thế này không làm sao tránh khỏi xu thế “ghét Hoa.”
Bản chất của mỗi con người từ lúc sinh ra không phải xấu, như nước từ nguồn hay nước sông biển. Xấu là vì nước đó nằm trong chai Trung Quốc hay lọ Việt Nam. Vì sao ngày nay, người ta ghét người Hoa và xem thường người Việt, câu trả lời rất đơn giản.
Ghét hay thương là chuyện của con tim và cả lý trí, nhưng hèn đến đỗi một tướng cầm quân mà “so vai rụt cổ” cho rằng: “Xu thế ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc,” thì dân tộc này chắc chắn thuộc loại hèn hạ, chẳng ra gì!
Người Hoa, dưới sự phán xét của bạn, họ có đáng ghét không?
Huy Phương