logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 12/07/2017 lúc 09:46:29(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,173

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Thính giả tên Hoàng ở Bắc California hỏi:
“Thưa Bác sĩ,
Con tôi bị trầm cảm và uống thuốc chống trầm cảm Venlafaxin 75 mg.
Xin hỏi Bác sĩ về công dụng cũng như tác dụng phụ của thuốc này.
Xin cảm ơn Bác sĩ.”


Tải để nghe bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:
https://av.voanews.com/c...32-8bdd-a0ec98c6b3e3.mp3

Thuốc trị trầm cảm Venlafaxin
Chứng trầm cảm có hai dạng chính:
Cơn rối loạn trầm cảm lớn (major depressive disorder): bịnh nhân không thấy thích thú, thú vị trong bất cứ chuyện gì, không thích làm việc, hoạt động, mang mặc cảm tội lỗi, không tập trung được, lo lắng mất ngủ, ăn không thấy ngon.
Dysthymia: buồn bã không thấy lạc thú, hững hờ với công việc, kéo dài trên 2 năm; triệu chứng nhẹ hơn, nhưng mãn tính (kinh niên) hơn loại trầm cảm trên.
Thuốc trị trầm cảm chủ yếu tác dụng tăng mức các chất dẫn truyền thần kinh [neurotransmitters] trong não bộ. Norepinephrine và serotonin là 2 chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitter) được tiết ra trong khớp thần kinh (synapse), tạo liên lạc, đưa tín hiệu từ tế bào thần kinh này qua tế bào thần kinh kế tiếp.
Thuốc trị trầm cảm thế hệ thứ nhất làm tăng chất norepinephrine trong các khớp thần kinh (synapses). Ví dụ: loại tricyclic antidepressant [thuốc chống trầm cảm 3 vòng], như amitriptylin [“Elavil”].
Hiện nay, các thuốc trị trầm cảm mới (thế hệ thứ hai, second generation antidepressants), tuy không hiệu nghiệm hơn, được ưa chuộng hơn và rất thịnh hành. Thuốc ít phản ứng phụ hơn các thuốc trị trầm cảm thế hệ trước, nhất là ít tác động lên tim mạch và bịnh nhân khó chết vì thuốc hơn nhiều nếu chẳng may hoặc cố tình uống quá liều. Tuy nhiên, cũng nên nhắc ở đây là FDA cảnh báo các bác sĩ cần chú ý đến hiện tượng gia tăng tự sát ở các trẻ em, thanh thiếu niên dùng thuốc chống trầm cảm, nhất là cần theo dõi chặt chẽ bịnh nhân trong tháng đầu tiên.
Những thuốc này được gọi là SSRI (Selective Serotonin Reuptake Inhibitors, “thuốc ức chế tái hấp thu có chọn lọc serotonin”. Serotonin là một chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitter) được tiết ra trong khớp thần kinh (synapse). Thuốc loại SSRI ngăn chặn không cho serotonin bị thu hồi (reuptake) trở ngược lại vào tế bào thần kinh phía trước (presynaptic cell), do đó tăng serotonin ở khe khớp thần kinh (synaptic cleft). Những thuốc thường gặp là fluoxetin (Prozac, Sarafem), sertralin (Zoloft), paroxetin (Paxil), fluvoxamin (Luvox).
Venlafaxin (Effexor XR) là một thuốc chống trầm cảm. Khác với các thuốc kể trên, nó có tác dụng vừa tăng chất dẫn truyền (neurotransmitter) serotonin vừa tăng chất norepinephrine ở những synapse, là những khớp thần kinh, nơi tế bào thần kinh này "nói chuyện" với tế bào thần kinh kia, nhờ sự trao đổi các chất dẫn truyền. Nhóm thuốc chống trầm cảm này gọi là SNRI: serotonin and norepinephrine Reuptake Inhibitor. Thuốc ức chế việc thu hồi các chất dẫn truyền serotonin và norepinephrin sau khi chúng được tiết ra, do đó chúng tác dụng mạnh hơn và lâu hơn. Các thuốc trong nhóm này: venlafaxine, desvenlafaxine and levomilnacipran có thể làm áp huyết cao hơn; duloxetine (Cymbalta) có thể làm bịnh gan nặng hơn.
Chỉ định dùng thuốc venlafaxin :
Rối loạn trầm cảm lớn (MDD, Major Depressive Disorder)
Rối loạn lo âu lan tỏa (GAD, Generalized Anxiety Disorder)
Panic disorder (cơn sợ nhanh, cao độ, đột ngột, vô cớ), (Từ panic gốc là "Pan"tên của vị thần thôn dã trong thần thoại Hy Lạp; Pan gây ra những âm thanh làm dân quê và thú vật hoảng sợ. )
Khủng hoảng, lo sợ trong hoàn cảnh xã hội, phải tiếp xúc với người khác (social phobia).
Thuốc hiệu nghiệm hơn những loại SSRI trước đó như fluoxetine, paroxetine, fluvoxamine nhưng tỷ lệ tự sát chết người cao hơn (tuy tỷ lệ cao hơn này một phần vì người ta dùng thuốc này cho những bịnh nhân có chứng trầm cảm nặng hơn)
Phản ứng phụ:
Tuy là thuốc chữa bịnh trầm cảm, FDA bắt buộc tất cả các thuốc loại này phải để một "black box" (hộp đen, khung đen) cảnh báo bác sĩ là dùng thuốc chống trầm cảm có thể gây ra những tư tưởng muốn tự tử hay hành động, hành vi tự sát (suicidal thoughts or suicidal behavior) ở một số bịnh nhân, nhất là người dưới 25 tuổi. FDA cảnh báo là an toàn và hiệu nghiệm của việc dùng Venlafaxine cho trẻ em hoặc thanh thiếu niên (pediatric use) chưa được chứng minh (thiết lập). Bác sĩ phải cân nhắc những mối nguy có thể xảy ra so với nhu cầu dùng thuốc của bịnh nhân.
Người già:đôi khi nồng độ muối trong máu có thể giảm quá thấp (hyponatremia).
Các biến chứng có thể làm bịnh nhân ngưng thuốc: Buồn ngủ, mất ngủ, chóng mặt, bức rức, khô miệng, lo âu, buồn nôn (có thể ít hơn nếu uống thuốc sau khi ăn), xuất tinh bất bình thường, bất lực, nhức đầu, mệt mỏi, toát mồ hôi.
Cần cho bác sĩ biết những thuốc mình đang dùng đồng thời, ví dụ:
các thuốc thảo dược, (herbal medicines),
các thuốc đau nhức, thuốc chống trầm cảm khác,
Ở Mỹ có herbal medicine St John wort ( Hypericum perforatum) dùng trị trầm cảm. Nếu dùng chung với SNRI có thể làm tim đập mạnh, huyết áp lên cao trong hội chứng serotonin gồm bứt rứt, bớt tỉnh táo, tim đập nhanh, toát mồ hôi, do trong máu có quá nhiều serotonin (serotonin syndrome)
thuốc làm mình dễ chảy máu hơn (như Coumadin).
Có thai, cho con bú sữa mẹ: bác sĩ cần cân nhắc lợi hại.
Không nên ngưng thuốc đột ngột, cần hỏi bác sĩ trước, có thể bs cho giảm liều từ từ.
Nói tóm lại, thuốc Venlafaxin mới hơn, chống trầm cảm, có thể hiệu nghiệm hơn các thuốc SSRI như Prozac, và làm tăng serotonin cũng như norepinephrine giữa các neuron trong não bộ thay vì chỉ tác dụng trên serotonin như SSRI. Tuy nhiên có thể phản ứng phụ nhiều hơn và cơ nguy làm người bịnh tự sát hay nghĩ đến tự sát cao hơn, và không dùng cho trẻ em.
Những nhận xét trên đây hoàn toàn có tính cách thông tin tổng quát. Bịnh nhân cần bác sĩ theo dõi.
Chúc bịnh nhân may mắn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Theo VOA
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.063 giây.