Tưởng nhớ Kim Dung (1924-2018) Kim Dung.
Lời Người Viết: Giữa thập niên 90, tôi viết loạt bài về Kim Dung, từ nhân vật đến tác phẩm. Bài “Kim Dung, Cuộc Đời, Tác Phẩm, Nhân Vật Hư Cấu & Hiện Thực” đã đăng trong quyển Ngẫm Chuyện Nhân Sinh của tôi ấn hành năm 2004 từ trang 15 đến trang 53. Sở dĩ trong quyển nầy đăng bài viết về Kim Dung vì trong số bài phiếm dựa vào mẩu chuyện và nhân vật hư cấu để ngẫm lại xã hội và nhân vật hiện tại.
Thời điểm đó bài viết của tôi không phổ biến trên internet, sau khi ấn hành quyển sách, tôi đọc được số bài dựa trên bài viết nầy nhưng không để nguồn đã trích dẫn. Và, tôi nghĩ rằng “muôn sự của chung” bởi đây chỉ dựa trên sách, báo để tổng hợp lại.
Vào giữa thập niên 60, tôi mê truyện kiếm hiệp, không những chỉ đấm đá với nhau mà tài hoa của nhà văn Kim Dung qua ngòi bút võ hiệp kỳ tình, gọi nôm na là truyện chưởng. Với ngòi bút tài tình mô tả, hư cấu nhiều mối tình quá đẹp, từ lãng mạn giữa thiên nhiên với cỏ cây, núi rừng, tình yêu thánh hóa, hy sinh vô bờ bến… đến oan trái, nghiệt ngã, thống hận… mà ở thế gian hiện hữu không thể xảy ra.
Vì ngưỡng mộ tác phẩm của ông nên tôi chọn nhân vật trong võ Lâm Ngũ Bá để làm bút hiệu. Có vài lý do, gia đình ông là nạn nhân bi thảm khi Hoa Lục bị nhuộm đỏ, trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Hoa Lục, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố rồi tử hình. May mà năm 1948 ông sang Hồng Kông đến “vùng đất tự do” với hai bàn tay trắng để lập nghiệp. Vì vậy, năm 1966, khi cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản do Mao Trạch Đông phát động ở Hoa Lục, Kim Dung đã viết một loạt những bài xã luận lên án rằng Cách Mạng Văn Hóa “hủy diệt văn hóa và truyền thống Trung Hoa”.
Kim Dung mê nghiệp báo và cũng đa cảm… Với nhân sinh quan, kẻ ác nếu không thức tỉnh thì hậu quả bi thảm “quả báo nhãn tiền” và người hiền, trải qua bao sóng gió, bất hạnh rồi được yên lành. Có những nhân vật chịu phải nghịch cảnh, hy sinh để bảo vệ thanh danh, dòng giống…
Một số nhà văn, nhà báo đã chọn nhân vật thiện lẫn ác trong tác phẩm của Kim Dung để làm bút hiệu. Hư Trúc (Nguyên Sa), Kha Trấn Ác (Chu Tử), Kiều Phong (Lê Tất Điều), Hoàng Dược Sư (Đông Duy)… Lão Ngoan Đồng, Đoàn Dự, Mai Siêu Phong…
Nửa thế kỷ trước, tác phẩm Kim Dung trở thành hiện tượng với người dân miền Nam VN. Nhà văn Hiếu Chân với Bàn Về Tiểu Thuyết Võ Hiệp, 1967.
Nhà báo Nguyễn Viết Khánh, Tiểu Thuyết Tàu Trên Báo Chí Việt, 1968. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung, 1971. Nhà giáo Lưu Trung Khảo, Đi Vào Thế Giới Kiếm Hiệp, 1965. Tác phẩm Vô Kỵ Giữa Chúng Ta hay là Hiện Tượng Kim Dung, của Đỗ Long Vân, NXB Trình Bày, Sài Gòn, 1968 rất ăn khách.
Khi tôi đọc tác phẩm “Các Ẩn Số Chính Trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung” của GS Nguyễn Ngọc Huy, mới hiểu được dụng ý của Kim Dung mà sự nhận xét của tôi chưa bao giờ nghĩ đến. GS Nguyễn Ngọc Huy là vị thầy dạy môn Chính Trị Học khi còn là Sinh Viên Sĩ Quan ở quân trường tại Đà Lạt, vị thầy uyên bác thông suốt cổ kim, Đông Tây.
Theo các bản tin phổ biến trên internet, nhà văn Kim Dung qua đời vào Thứ Ba ngày 30/10/2018 tại Bệnh Viện & Viện Điều Dưỡng Hồng Kông (trùng ngày người tình là cựu minh tinh Hạ Mộng mất cách đây đúng 2 năm (16/2/1933 – 30/10/2016).
Để tưởng nhớ nhà văn tạo dựng ra nhân vật mà tôi mang bút hiệu, đăng lại bài viết trước đây về ông.
Tất cả bài viết feuilleton của Kim Dung đăng trên nhật báo, và sau đó in thành sách: Thư Kiếm Ân Cừu Lục (1955) - Bích Huyết Kiếm (1956) - Anh Hùng Xạ Điêu (1957) - Thần Điêu Hiệp Lữ (1959) - Tuyết Sơn Phi Hồ (1959) - Phi Hồ Ngoại Truyện (1960) - Bạch Mã Khiếu Tây Phong (1961) - Uyên Ương Đao (1961) - Ỷ Thiên Đồ Long Ký (1961) - Liên Thành Quyết (1963) - Thiên Long Bát Bộ hay Lục Mạch Thần Kiếm (1963) - Hiệp Khách Hành (1965) - Tiếu Ngạo Giang Hồ (1967) - Lộc Đỉnh Ký (1969-1972) - Việt Nữ Kiếm (truyện ngắn, 1970). (VTrD, Little Saigon Nov, 30)
***
Kim Dung, Cuộc Đời, Tác Phẩm, Nhân Vật Hư Cấu & Hiện Thực
Vào thập niên 40, tiểu thuyết võ hiệp được xuất hiện ở Việt Nam bàng bạc qua sách báo nhưng chưa tạo được thế đứng trong giới thưởng ngoạn. Ở Đài Loan và Hồng Kông, Kim Dung không phải là nhà văn tiên phong về loại tiểu thuyết đem võ nghệ trong thế giới võ lâm tạo thành tác phẩm - tiểu thuyết kiếm hiệp, võ hiệp kỳ tình, chưởng - nhưng ông là người đã đưa bộ môn nầy lên đỉnh vinh quang. Những cây bút trong tiểu thuyết võ hiệp như Trương Mộng Hoàn, Nghê Khuông, Cổ Long, Gia Cát Thanh Vân, Ngọa Long Sinh, Lương Vũ Sinh, Mộ Dung Mỹ, Nam Kim Thạch, Độc Cô Hồng, Liễu Tân Dương, Trần Thanh Vân... xuất hiện cùng thời điểm với Kim Dung nhưng ngòi bút của Kim Dung như kiếm khách tuyệt luân đem thế giới giang hồ trong võ lâm vào ngôn ngữ văn chương.
Tên ông đã gắn liền với bộ môn tiểu thuyết kiếm hiệp bởi bề dày của tác phẩm và được phát hành rộng rãi khắp thế giới. Theo con số thống kê ở Hồng Kông vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, trong thị trường đọc chữ Hán trên thế giới, sách của ông đã tiêu thụ hàng trăm triệu bản. Tại Đài Loan, theo con số công bố của tạp chí People, tháng 10 năm 1994, trong vòng gần 5 năm từ 1990 đến 1994, Kim Dung đứng dầu trong danh sách 10 tác giả có số lượng bản in bán nhiều nhất với 4 triệu 200.000 bản, trong khi Quỳnh Giao đứng thứ tám với 600.000 bản.
Tại Trung Cộng, khi tác phẩm Kim Dung được phổ biến, trong năm 1985, nhà xuất bản ở Thiên Tân mua được bản quyền để in và bán ra với số lượng 40 triệu bản.
Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng như Đại Hàn, Nhật Bản, Thái Lan, Mã Lai, Ý, Tây Ban Nha, Nga, Anh, Pháp...
Ở Việt Nam, theo bài viết của Hồ Tây thì vào cuối năm 1960, có thêm các tờ báo ra đời, đó là tờ Đồng Nai, Saigon Mai, Tiếng Dân, Mới, Dân Việt. Để có độc giả, Cao Giao hỏi ý kiến Vũ Khắc Khoan về truyện kiếm hiệp mà đi đâu Vũ Khắc Khoan đều kể là mê lắm... Cao Giao đặt Tiền Phong dịch bộ Bích Huyết Kiếm đăng trên tờ Đồng Nai, Đồ Mập dịch Anh Hùng Xạ Điêu cho tờ Dân Việt, Văn Giang thấy hai tờ báo kia có tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung nên nhờ Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử dịch Thần Điêu Hiệp Lữ cho tờ Mới... Khi Tiền Phong Từ Khánh Phụng dịch Cô Gái Đồ Long (Đồ Long Đao, Ỷ Thiên Kiếm) trên nhật báo Đồng Nai, thu hút độc giả khá đông, ở đâu cũng bàn tán từng nhân vật vừa ly kỳ, hấp dẫn. Năm 1962, Hồ Tây và Tiền Phong sang Hồng Kông gặp Kim Dung để bàn thảo về vấn đề chuyển dịch.
Sau đó, dịch giả Hàn Giang Nhạn, Phan Cảnh Trung, Lão Sơn Nhân, Từ Khánh Vân nhập cuộc, tác phẩm của Kim Dung xuất hiện trên nhiều tờ báo ở Sài Gòn với Hiệp Khách Hành, Võ Lâm Ngũ Bá, Thiên Long Bát Bộ, Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký... Hầu hết các nhật báo ở Sài Gòn đều tranh nhau đăng tiểu thuyết võ hiệp, tạo thành hiện tượng Kim Dung. Và, hầu hết tác phẩm của Kim Dung đã được in thành sách trước năm 1975...
Khi Cô Gái Đồ Long đã làm độc giả say mê thì Đỗ Long Vân đã viết quyển Vô Kỵ Giữa Chúng Ta hay Hiện Tượng Kim Dung, được ghi nhận là tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam viết về Kim Dung. Sau hai năm 1967-1968, Tiếu Ngạo Giang Hồ tung hoành trên làng báo Sài Gòn, nhà báo Trần Việt Sơn chuyên về bình luận chính trị trên tờ Chính Luận đem ý nghĩa câu chuyện với hình ảnh Ngũ Nhạc Kiếm Phái của chính giáo đã thiếu tinh thần đoàn kết để đối đầu với Triêu Dương Thần Giáo của tà giáo và rút ra bài học cho công cuộc đấu tranh trong giai đoạn hiện tại.
Miền Nam Việt Nam là môi trường phổ biến tác phẩm Kim Dung rộng rãi và có ảnh hưởng sâu rộng nhất vì tên tuổi nhiều nhân vật hư cấu trong tác phẩm của ông đã trở thành quen thuộc trong lúc đó, có nhiều tác phẩm võ hiệp khác của các tác giả ở Đài Loan và Hồng Kông cũng được phổ biến nhưng hình như không được đề cập, bàn thảo.
Qua quá trình xuất hiện tác phẩm của Kim Dung hằng ngày dưới dạng “feuilleton”, ngoài lãnh vực phổ biến qua sách báo, còn được thực hiện thành phim, video... với tác phẩm, với nhân vật, phổ biến rộng rãi khắp năm châu. Cuối thập niên 60, ở Pháp và Hoa Kỳ đã có Hội Nghiên Cứu Kim Dung; từ đó đến nay, nhiều nước đã thành lập Hội Nghiên Cứu Kim Dung, trong đó ở Đài Loan, Hội Nghiên Cứu Kim Dung có trên 60,000 hội viên.
Dòng Đời
Nằm cạnh sông Tiền Đường, Hải Ninh thuộc tỉnh Triết Giang, miền duyên hải phía Đông Trung Hoa nổi tiếng với danh lam non nước hữu tình và cũng là nơi xuất hiện nhiều nhân tài, địa linh nhân kiệt. Nơi đó, trên cổng vào từ đường dòng họ Tra, treo câu đối của vua Càn Long ca ngợi gốc gác và danh giá họ Tra: “Đường Tống dĩ lai cư tộc. Giang Nam hữu sổ nhân gia”.
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1924, ở trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang. Họ Tra thuộc gia đình khoa bảng, vọng tộc lưu danh qua nhiều đời. Kim Dung là người thứ hai trong số sáu anh chị em. Thân mẫu ông là cô họ thi hào Từ Chí Ma, thuộc dòng dõi vọng tộc thế gia ở Hải Ninh. Chẳng may bà qua đời lúc ông còn niên thiếu và được mẹ kế là Cổ Tú Anh nuôi dạy cho đến lúc trưởng thành.
Dòng họ Tra nổi tiếng với thư viện gia đình Tra Thị Tàng Thư, lưu trữ sách từ nhiều đời; tiếp nối truyền thống của tổ tiên, từ nhỏ, Tra Lương Dung ham đọc sách nên đó cũng là môi trường thuận lơi để ông học hỏi, tìm tòi.
Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở Viên Hoa, được đánh giá thông minh, chăm chỉ. Năm lên tám tuổi, ông đọc bộ tiểu thuyết đầu tiên là bộ Hoang Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo (1897-1944), đọc Giang Hồ Kỳ Hiệp của Bình Giang Bất Tiếu Sinh trên tạp chí Hồng Mai Khôi, Cận Đại Hiệp Nghĩa Anh Hùng trên tờ Trinh Thám Thế Giới... thấy say mê nên từ đó đã có mộng sẽ viết về bộ môn này.
Kim Dung trưởng thành trong giai đoạn chiến tranh Trung - Nhật bùng nổ dữ dội và quân đội Nhật đã xâm lăng từ Mãn Châu dần đến những tỉnh, thành khác dọc theo duyên hải Trung Hoa, bên cạnh đó, cuộc chiến Quốc - Cộng ngày càng lan rộng đưa đất nước vào cảnh lầm than, đầy biến động.
Năm 1937, mới 13 tuổi, mới học năm thứ ba trung học ở huyện Gia Hưng, ông đã cả gan viết một cuốn sách Dành Cho Người Thi Vào Sơ Trung, Tra Lương Dung biên soạn, nhà xuất bản ở Triết Giang ấn hành, được nhiều người trong mấy tỉnh lân cận mua đọc. Có thể nói đó là tác phẩm đầu tay của ông.
Hai năm sau, khi lên Liên Hợp Cao Trung, ông viết thêm cuốn Hướng Dẫn Thi Vào Cao Trung, sách cũng được xuất bản và mọi người đều nghĩ đó là nhà giáo, không ngờ đó là cậu học trò tuổi mới mười lăm.
Đến năm 1940, khi còn đang học năm cuối bậc Trung Học, vì tình hình chiến sự sôi động, ông phải tản cư qua nhiều phủ huyện.
Cũng năm đó, ông viết bài cho bích báo với truyện trào phúng dưới nhan đề Cuộc Du Hành Của Alice (dựa theo truyện Alice in Wonderland) có ý châm biếm nhân vật Thẩm Nải Xương, Chủ Nhiệm ban Huấn Đạo, hình ảnh “con rắn đeo kính” độc đoán, thủ cựu, khắc khe thái quá nên ai cũng chán ghét... nên bị nhà trường đuổi học. Kim Dung chuyển sang học tại trường Cù Châu, mùa hạ năm 1941, chứng kiến hình ảnh rất bất bình khi thấy thấy giáo ỷ vào uy quyền của mình nên chửi cậu học trò, còn nổi giận muốn hành hung. Kim Dung viết bài Một Sự Ngông Cuồng Trẻ Con, bài được đăng trên Đông Nam nhật báo, gây xôn xao cả trường Cù Châu. Nhờ bài báo nầy, Kim Dung được nhà báo Trần Hướng Bình đến trường tìm hiểu; sau nầy Đông Nam nhật báo dời về Hàng Châu, Kim Dung gặp lại Trần Hướng Bình và dấn thân vào nghiệp dĩ trong làng báo.
Năm 1942, Kim Dung dịch một phần trong Kinh Thi sang tiếng Anh và biên soạn tự điển Anh-Hán bỏ túi.
Năm 1944, ông thi đậu vào Học Viện Chính Trị Trung Ương của Quốc Dân Đảng tại thủ phủ Trùng Khánh nhưng trong thời kỳ nầy có sự tranh chấp giữa các sinh viên với nhau, Kim Dung tham dự vào “cuộc chiến” và không hưởng ứng lời cam kết với quy ước “tham gia quân đội” nên ông bị khai trừ. Nhờ người anh họ làm việc tại thư viện trung ương, ông được làm việc ở đó, có thì giờ đọc nhiều sách viết về phiêu lưu, mạo hiểm bằng tiếng Anh, và những truyện đó đã ảnh hưởng mạnh đến lối hành văn của ông sau này. Ông cùng hai người bạn cũng trong hoàn cảnh khó khăn nhưng cố gắng ra đời tạp chí Thái Bình Dương, báo đã tiêu thụ hết nhưng gặp thời buổi leo thang, không có vốn liếng để tiếp tục nên mộng ước đành tan vỡ.
Ông vượt đường trường đến nông trường Tương Tây ở
nơi xa để thử thách với cuộc sống khác. Sau Đệ Nhị thế chiến, khi Nhật thua trận, rút khỏi Trung Hoa, ông quay trở về cố hương Hải Ninh, với niềm ước mong của song thân theo truyền thống khoa bảng gia đình nhưng Kim Dung đã không đáp ứng được điều đó nên hội ngộ cùng thân nhân trong thời gian ngắn và tìm cách ra đi. Ông qua Hàng Châu làm ký giả cho tờ Đông Nam nhật báo, nhưng không lâu, ông lại sang Thượng Hải ghi tên học luật, ngành Quốc Tế Công Pháp ở Đại Học Đông Ngô. Bước vào đại học nhưng với niềm ước mong trong nghiệp báo, gặp thời cơ ông là một trong ba người trong toàn quốc đậu kỳ thi tuyển phiên dịch pháp luật của Đại Công Báo.
Ngày 15 tháng 3 năm 1948, khi tờ Đại Công Báo tái bản tại Hương Cảng, ông được cử sang làm việc tại đây. Trên đường từ Thượng Hải đến Hồng Kông, Kim Dung cho biết vốn liếng chỉ có 10 Mỹ kim, mượn của người bạn đồng hành, làm lộ phí. Tháng 11 năm 1949, ông viết một bài dài nhan đề “Quyền Tư Hữu Của Hoa Kiều Theo Luật Quốc Tế” và từ đó chuyên viết về bộ môn Công Pháp Quốc Tế.
Năm 1950, sau khi Cộng Sản chiếm được Trung Hoa, ở Hồng Kông, ông trở lại Bắc Kinh với tham vọng vai trò của nhà ngoại giao như đã mộng ước nhưng lý lịch bản thân gia đình tư sản nên bị từ chối. Đồng thời gia đình ông bị qui tội vào thành phần địa chủ, cha ông bị đem ra đấu tố, tử hình nên từ đó ông không còn liên lạc với gia đình được nữa.
Đến năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân Vãn Báo, viết phiếm luận. Cũng thời gian này, ông có viết một số truyện phim chẳng hạn như Lan Hoa Hoa, Tuyệt Đại Giai Nhân, Tam Luyến, Hữu Nữ Hoài Xuân.... Ông ký bút hiệu là Lâm Hoan và Diêu Linh Lan.
Thời gian Kim Dung và Lương Vũ Sinh làm việc ở báo Tân Văn, được La Phù, chủ biên, mớm cho ông con đường đi vào tiểu thuyết võ hiệp. Năm 1953, Lương Vũ Sinh đã xuất chiêu trước với Long Hổ Đấu Tinh Hoa, thu hút độc giả, đem lại kết quả tốt đẹp làm cho các báo khác lưu tâm.
Năm 1955, Hương Cảng Thương Báo nhờ La Phù tìm giúp tay viết tiểu thuyết võ hiệp, La Phù đã lưu tâm Kim Dung trước đây, có cơ hội để giới thiệu cho ông vung bút và bộ truyện đầu tay của ông là Thư Kiếm Ân Cừu Lục (Thư Kiếm Giang Sơn) với bút hiệu Kim Dung, được đăng hàng ngày trên nhật báo Tân Văn, mỗi ngày khoảng một nghìn chữ, kéo dài trong hai năm. Được độc giả ái mộ, tên tuổi Kim Dung được nổi hơn Lương Vũ Sinh, khi in thành sách, ở Nam Dương thực hiện thành phim trên truyền hình, tên tuổi ông lại được chấp cánh bay cao.
Năm 1956, ông bắt đầu viết tác phẩm thứ hai là Bích Huyết Kiếm, xuất hiện trên Hương Cảng Thương Báo, lúc nầy tiểu thuyết võ hiệp như làn gió mới thu hút độc giả mỗi ngày càng nhiều.
Năm 1957, ông bỏ viết báo quay sang làm việc cho công ty điện ảnh Trường Thành, vài truyện phim được thực hiện như Ba Mối Tình, Đừng Bỏ Anh, Tiếng Đàn Khuya nhưng vẫn tiếp tục phóng bút với Tuyết Sơn Phi Hồ, thấy ăn khách, ông viết Phi Hồ Ngoại Truyện, bối cảnh câu chuyện lại xảy ra trước Tuyết Sơn Phi Hồ.
Nắm được thị hiếu của độc giả, năm 1959 và 1960, ba tạp chí chuyên về võ hiệp ra đời ở Hồng Kông: Võ Hiệp Tiểu Thuyết Chu Báo, Võ Hiệp Thế Giới, Võ Hiệp & Lịch Sử. Kim Dung xuất hiện trên Võ Hiệp & Lịch Sử với Anh Hùng Xạ Điêu (Xạ Điêu Anh Hùng truyện) với diễn biến trong thời kỳ Thành Cát Tư Hãn của lịch sử Trung Hoa bên cạnh các nhân vật hư cấu như Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế, Trung Thần Thông... làm mê hoặc độc giả.
Khi các nhân vật trong Võ Lâm Ngũ Bá (Anh Hùng Xạ Điêu tiền truyện) xuất hiện trên trang báo, cơn sốt về Kim Dung như bùng dậy với từng khuôn mặt và tình tiết được bàn tán xôn xao. Tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ được xuất hiện ở Việt Nam vào thập niên 60 với tựa đề Thần Điêu Đại Hiệp chưa được chuẩn xác vì chữ “Lữ” có nghĩa là đôi bạn chân tình Dương Qua - Tiểu Long Nữ.
Sau năm tháng dấn thân qua nhiều tờ báo từ đại lục sang Hồng Kông, Kim Dung muốn tạo dựng cho mình con đường độc lập nên cùng người bạn học là Thẩm Bảo Tân cho ra đời tờ Minh Báo. Nhật báo chỉ có 4 trang, khổ tabloid, trang ba độc quyền với tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Ngày 20 tháng 5 năm 1959, Minh Báo trình làng với Thần Điêu Hiệp Lữ, câu chuyện tiếp nối của Anh Hùng Xạ Điêu, mỗi ngày khoảng 2000 chữ và xuất hiện liên tục trong 3 năm. Tờ báo mỏng manh giữa rừng báo ở Hồng Kông nhưng nhờ Thần Điêu Hiệp Lữ tung hoành trên chốn giang hồ nên Minh Báo càng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thời gian đầu ra tờ Minh Báo, vợ chồng Kim Dung sống trong hoàn cảnh khó khăn, tất cả vốn liếng dồn vào tờ báo nhằm duy trì sự sống còn.
Tuy dốc tâm vào việc sáng tác tiểu thuyết nhưng Kim Dung vẫn giữ còn dành thời giờ cho phần bình luận trên tờ Minh Báo rất sâu sắc.
Trước thập niên 50, Kim Dung có “mối dây liên hệ” với vài khuôn mặt của Cộng Sản ở đại lục nên có khuynh hướng thiên tả vì vậy ông đã cộng tác với Đại Công Báo trong suốt 10 năm ở Hồng Kông.
Sau thời gian được tin gia đình ông bị bạc đãi và mất liên lạc, ông đã thay đổi lập trường nên trong suốt hai năm Minh Báo ra đời 1959, 1960, với lập trường thiên hữu có những bài bút chiến kịch liệt với tờ báo thiên tả Đại Công Báo. Đứng trên quan điểm chính trị, ngòi bút bình luận sâu sắc của ông đã nâng cáo giá trị tờ Minh Báo. Năm 1957, Kim Dung không cón cộng tác với hai tờ báo khuynh tả là Đại Công Báo và Trường Thành Họa Báo để tham gia vào tổ chức Tự Do Báo Nghiệp Hiệp Hội.
Ngày 6 tháng 7 năm 1961, Ỷ Thiên Đồ Long, tiếp nối Thần Điêu Hiệp Lữ, xuất hiện trên Minh Báo đưa tiểu thuyết võ hiệp trở thành hiện tượng trong làng báo. Và, Cô Gái Đồ Long qua bản dịch của Tiền Phong Từ Khánh Phụng xuất hiện trong làng báo ở Sài Gòn, bộ truyện nầy kéo dài được 3 năm. Ba bộ truyện nầy với diễn biến theo dòng thời gian được gọi là Xạ Điêu Tam Bộ khúc.
Năm 1960, Kim Dung còn sáng tác đoản truyện Bạch Mã Khiếu Tây Phong, năm 1961 truyện Uyên Ương Đao, và năm 1963 với tác phẩm Liên Hành Quyết nhưng với những câu chuyện riêng biệt, môn phái trong thế giới võ lâm không nằm trong tam bộ khúc đó nên ít gây được sự quan tâm của độc giả.
Ngày 3 tháng 9 năm 1964, Thiên Long Bát Bộ ra mắt trên Minh Báo và Nam Dương Thương Báo ở Singapore, kéo dài suốt 4 năm. Trong thời gian nầy, Minh Báo đã có vị trí vững vàng trong làng báo ở Hồng Kông, Kim Dung có dịp đi ngoại quốc nên Nghê Khuông thay ông tiếp nối xây dựng tác phẩm. Ở Việt Nam, tác phẩm in thành sách lại chia ra Thiên Long Bát Bộ có 34 hồi và Lục Mạch Thần Kiếm gồm 120 hồi.
Năm 1965, tác phẩm Hiệp Khách Hành mang hình ảnh thi ca vào thế giới võ lâm nhưng bị lu mờ trước hào quang của tam bộ khúc quá tuyệt. Hơn nữa, thời gian nầy, Kim Dung chuẩn bị cho Minh Báo nguyệt san và công việc hình thành công ty Đại Minh Báo trong tương lai.
Sau khi tìm được cộng sự, năm 1967, Tiếu Ngạo Giang Hồ hiện diện trên Minh Báo, nhiều tờ báo đã dịch và đăng tải liên tục suốt 2 năm.
Trong thời điểm Trung Cộng phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa, phe thiên tả càng đả kích ông mạnh mẽ khi ông ủng hộ đường lối chặt chẽ của nhà cầm quyền Hồng Kông để giữ vững tinh thần độc lập. Và năm 1968, ông xuất bản thêm tờ Tân Minh nhật báo ở Mã Lai và Singapore, lại ra thêm tuần báo Minh Báo Chu San với tính cách giải trí, mời nữ lưu chủ biên tờ báo và công việc phát triển tốt đẹp.
Ngày 24 tháng 10 năm 1969, Lộc Đỉnh Ký xuất hiện trên Minh Báo, liên tục cho đến ngày 14 tháng 9 năm 1972. Bộ truyện sôi nổi và hấp dẫn, độc giả trông đợi ngòi bút Kim Dung tung hoành trong thế giới võ lâm thì ông tuyên bố “gác kiếm”.
Kim Dung đam mê sáng tác và làm việc không mệt mỏi, vừa viết báo, vừa viết tác phẩm liên tục hàng ngày vì vậy, nếu tính số lượng chữ viết qua bình luận thời sự và tiểu thuyết võ hiệp, không ai phủ nhận sức làm việc của ông. Qua công trình sáng tác, ông tuyên bố toàn bộ những gì ông đã viết suốt 20 năm qua thành trọn bộ 36 cuốn, dưới nhan đề “Kim Dung, Võ Hiệp Tiểu Thuyết Toàn Tập”.
Tháng 4 năm 1973, Kim Dung thăm Đài Loan, hội đàm với Thủ Tướng Tưởng Kinh Quốc, nhiều nhân vật cao cấp của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc cùng văn giới, báo giới để trao đổi và tìm hiểu trong nhiều lãnh vực... Nhân cơ hội nầy, khi trở lại Hồng Kông, loạt bài phóng sự “Thấy Gì, Nghe Gì, Nghĩ Gì Ở Đài Loan”, với cái nhìn khách quan, thực tiễn và sắc bén của ông được mọi người ái mộ như những tác phẩm đã được ăn khách của ông.
Trong suốt hai thập niên, tác phẩm Kim Dung được phổ biến trên nhiều quốc gia thì Đài Loan lại cấm, năm 1978 mới được phép chính thức phổ biến.
Đến năm 1980, tờ Võ Lâm tại Quảng Châu đăng truyện “Anh Hùng Xạ Điêu”, mở đầu cho một phong trào đọc Kim Dung ngay tại hoa lục.
Sau 28 năm xa cách quê hương, năm 1981, ông cùng vợ con về thăm Trung Cộng. Đặng Tiểu Bình đã mời ông đàm luận nên trong dịp nầy ông có cơ hội tiếp xúc với nhiều giới chức trong suốt thời gian 6 tuần lễ khắp 13 tỉnh để tìm hiểu và thưởng ngoạn. Năm 1984, ông lại đi Bắc Kinh và lần này có hội kiến với Hồ Diệu Bang và năm 1985, Trung Cộng thành lập cơ quan nghiên cứu về tình trạng đặc biệt của Hồng Kông sau năm 1997, ông được mời đảm nhận ủy viên trong cơ cấu này, đặc trách tiểu tổ “Thể Chế Chính Trị”.
Năm 1985, tác phẩm của Kim Dung được phổ biến ở Trung Cộng, ông đã bị tai tiếng cho rằng đã thay đổi lập trường để tác phẩm được phổ biến trong thị trường rộng lớn và bước chân vào chính trường của Trung Cộng. Có cơ quan ngôn luận trong tay nên ông không ngần ngại nói lên quan điểm của mình trước hiện tình chuyển biến của Hồng Kông.
Thái độ chính trị của ông được minh định vào tháng 5 năm 1989, khi xảy ra biến cố Thiên An Môn, ông từ chức vai trò trong cơ quan nghiên cứu đó để phản đối thái độ đàn áp dân chủ của Trung Cộng.
Nhân dịp kỷ niệm ba mươi năm hoạt động của công ty Minh Báo (1959 - 1989), ông từ chức Chủ Nhiệm chấp hành, chỉ còn giữ chức Chủ Tịch ban quản trị.
Năm 1993, ông lại đi Bắc Kinh để bàn về vai trò của Hồng Kông sau khi Anh Quốc trao trả lại Trung Cộng do lời mời của Giang Trạch Dân. Tháng 4 năm 1993, ông từ chức Chủ Tịch ban quản trị công ty Minh Báo, giữ vai trò Chủ Tịch danh dự, và tuyên bố hoàn toàn nghỉ ngơi như dự tính, để có thời gian thăm viếng, tiếp xúc với sinh viên ở các đại học trên thế giới theo lời mời làm giáo sư thỉnh giảng. Ông bày tỏ với thời gian còn lại với tuổi về hưu để hoàn chỉnh lại tác phẩm đã được phổ biến trước đó.
Trong 17 năm (1955-1972) từ tác phẩm đầu tay Thư Kiếm Ân Thù Lục đến tác phẩm sau cùng Lộc Đỉnh Ký, toàn bộ tác phẩm của Kim Dung trên vạn trang.
Tổng cộng có 14 bộ tiểu thuyết Võ hiệp của Kim Dung đã lấy những chữ đầu đặt thành câu đối cho dễ nhớ:
“Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc
Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên”
Phi Hồ Ngoại Truyện - Tuyết Sơn Phi Hồ — Liên Thành Quyết — Thiên Long Bát Bộ — Xạ Điêu Anh Hùng — Bạch Mã Khiếu Tây Phong — Lộc Đỉnh Ký
Tiếu Ngạo Giang Hồ - Thư Kiếm Ân Cừu Lục - Thần Điêu Hiệp Lữ — Hiệp Khách Hành - Ỷ Thiên Đồ Long - Bích Huyết Kiếm - Uyên Ương Đao.
Năm 1976, đoản truyện võ hiệp Việt Nữ Kiếm tái xuất giang hồ nhằm gởi gấm hình ảnh và bối cảnh trong thời điểm Việt Vương Câu Tiễn và Ngô Phù Sai với mối tình giữa Phạm Lãi và Tây Thi, hoa mộng và ngang trái, được sở đắc với độc giả nhưng quá ngắn nên coi như phần phụ. Có lẽ, sau khi tuyên bố gác kiêm nhưng lại sáng tác đoản truyện nầy vì Kim Dung muốn mượn hình ảnh Phạm Lãi để nói lên con đường của mình khi công thành danh toại.
Tình Duyên
Trong tác phẩm võ hiệp của Kim Duyên với những mối tình thật tuyệt vời rất hấp dẫn, lôi cuốn độc giả. Ảnh hưởng từ cuộc sống, tình trường đã xúc tác qua ngòi bút làm phong phú từng nhân vật trong tác phẩm trong chốn võ lâm với non nước hữu tình.
Mối tình đầu vào lúc ông 23 tuổi, năm 1947, ông cộng tác với tờ Đông Nam nhật báo, giữ mục trao đổi ý kiến rất ăn khách, Đỗ Dã Thu đang theo học ở Thượng Hải, gởi thư đến tòa soạn với sự tinh nghịch của tuổi trẻ, trao đổi tâm tình và hẹn ước gặp gỡ tại tư gia. Khi ông đến, được diện kiến chị của Đỗ Dã Thu là Đỗ Tú Nương, mới 17 tuổi, nhan sắc thật dễ thương và từ đó, tình cảm bộc phát.
Qua nhịp cầu tinh nghịch của cậu em trai, mối giao tình giữa Kim Dung và gia đình Đỗ Tú Nương ngày thêm đậm đà. Thời gian đó, gia đình nàng lại dời về Hàng Châu, mùa Hè năm 1948, Kim Dung được tờ Đại Công Báo biệt phái sang Hồng Kông nên trở về Hàng Châu, ra mắt song thân Đỗ Tú Nương, xin phép cầu hôn. Hôn lễ được tổ chức tại Thượng Hải, Giám Đốc tờ Đại Công Báo là Phí Di Dân đứng làm chủ hôn.
Kim Dung đến nhận công việc ở Hồng Kông, thời gian sau Đỗ Tú Nương sang hội ngộ. Trong giai đoạn nầy, Kim Dung say sưa với nghiệp báo, Đỗ Tú Nương cảm thấy trống vắng, buồn chán, không phù hợp với khung cảnh ở Hồng Kông nên năm 1950, nàng trở lại quê nhà, sau đó, làm thủ tục ly hôn.
Cuộc tình kế tiếp khi Kim Dung chia tay với người vợ đầu và đang làm việc ở công ty điện ảnh Trường Thành, ông viết kịch bản và làm đạo diễn trong các bộ phim như Tuyệt Đại Gia Nhân, Nữ Hữu Hoài Xuân, Tiếng Đàn Khuya, Ba Mối Tình... Và, trong Trường Thành, minh tinh Hạ Mông, nổi tiếng về tài và sắc đương thời, xuất hiện trong Tuyệt Đại Giai Nhân. Cuộc tình đơn phương hay không còn bí mật trong vòng tình cảm riêng tư giữa hai người nhưng dư luận lại bàn tán xôn xao vì Hạ Mông, con nhà giàu có, nhiều kẻ tình si có danh, nhiều của theo đuổi trong khi chàng đạo diễn đã dang dở cuộc tình, đồng lương đủ nuôi bản thân và vóc dáng, không có gì lôi cuốn, khó trở thành đối tượng cho minh tinh đang ăn khách nhất Hồng Kông.
Khi nghe tin Hạ Mông lập gia đình với tay tỷ phú, Kim Dung dùng ngòi bút để vơi đi nỗi sầu nên “số lượng chữ nghĩa” xuất hiện trên mặt báo làm mọi người kinh ngạc. Kim Dung không đề cập đến Hạ Mông nhưng trong tác phẩm của ông, người ta cho rằng bóng dáng đó thấp thoáng trong Hoàng Dung, Vương Ngọc Yến, Tiểu Long Nữ... Theo nhà báo Hồ Tây, trong cuộc gặp gỡ với Kim Dung lần thứ hai vào năm 1968, Kim Dung có tâm sự rằng, nếu không có chuyện thất tình vì Hạ Mông, chưa chắc gì ông đã viết được những trang tiểu thuyết kiếm hiệp đầy tình cảm trong Ỷ Thiên Đồ Long, Thiên Long Bát Bộ.
Có lẽ mối tình si đơn phương thầm kín đó phải chôn giấu để tránh thị phi và giữ êm thấm khi lập lại cuộc tình khác nên sau nầy, khi đã có gia đình, năm 1976, Hạ Mông rời Hồng Kong sang Canada, Kim Dung tổ chức tiệc tiễn đưa và mới chính thức viết trên Minh Báo những dòng trong phần xã luận của mình.
Người bạn đời đến với Kim Dung là Chu Mai vào đầu thập niên 60, trong thời gian còn khó khăn và hai người đã đồng tâm hiệp lực, nương tựa, cảm thông với nhau trong công việc để gây dựng sự nghiệp.
Khi thành lập tờ Minh Báo, hoàn cảnh Kim Dung được ghi nhận qua Bành Hoa và Triệu Kính Lập: “Lúc bấy giờ Kim Dung ở Tiêm Sa Thủy, đêm khuya xong việc, thuyền chở khách đã hết, phải đi thuyền nhỏ qua eo biển. Nếu muốn sang ngay thì phải bao cả chuyến mất 3 đồng, nếu không thì phải đợi đủ 6 người thuyền mới chở. Để tiết kiệm tiền, vợ chồng Kim Dung lúc ấy đành phải chịu lạnh đứng chờ”.
Kim Dung và Chu Mai (kết hôn năm 1953, ly hôn năm 1976), có 4 người con, hạnh phúc gắn bó với nhau trong những năm đầu cùng hội cùng thuyền trong thời gian ra đời tác phẩm Uyên Ương Đao đến Hiệp Khách Hành, khi Tiếu Ngạo Giang Hồ ra đời thì tình cảm hai người chỉ còn với bổn phận với con cái. Cuộc ly hôn nầy mang đến thảm khốc, tháng 10/1976, Tra Truyền Hiệp tự tử bằng cách treo cổ chưa đầy 20 tuổi và đang là sinh viên năm nhất Đại Học Columbia ở Hoa Kỳ. Người con trai thứ Tra Truyền Thích và hai con gái là Tra Truyền Thi, Tra Truyền Nột sau nầy thành công nhưng không nối nghiệp thân phụ. Kim Dung rất thương hai cô con gái nên trong tác phẩm của ông mang hình anh tình nghĩa cha con.
Cuộc sống thầm lặng giữa hai người kéo dài cho đến năm 1981, Chu Mai mang ba người con sang San Francisco, Hoa Kỳ. Bà bước vào thương trường, nhờ quen biết nhiều nên được thành công, hai người con gái được thành danh.
Cuộc tình kế tiếp kéo dài cho đến cuối đời với nàng Lâm Lạc Di. Cuộc gặp gỡ tình cờ trong quán ăn giữa người làm công ái mộ và tác giả nổi tiếng, Lâm Lạc Di tuổi vừa đôi mươi, nhỏ hơn Kim Dung 29 tuổi nhưng đã tâm đầu ý hợp. Kim Dung lo cho nàng tiếp tục bước đường học vấn để có khả năng quán xuyến công việc.
Vào thập niên 90, khi nhẹ trách nhiệm với công ty Minh Báo, Kim Dung cùng Lâm Lạc Di có dịp chu du khắp nơi và bà đã giúp cho ông trong bao công việc theo dự tính đã được hoạch định.
Hiểu được sóng gió trong trường tình của Kim Dung nên Lâm Lạc Di rất tế nhị trong xã giao và mối liên hệ với con cái của vợ trước. Bà chăm lo tận tình con cái của Chu Mai từ Hoa Kỳ về nghỉ Hồng Kông vào mỗi dịp Hè.
Kim Dung đang sống trong hào quang của danh vọng, tiền bạc và tình yêu thì mang nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời. khi đứa con trai của ông là Tra Truyền Hiệp mất năm 19 tuổi vào đầu thập niên 90. Tra Truyền Hiệp có khiếu về văn chương, ông để cho con tự do theo cách suy nghiệm riêng tư và sở thích nhưng lúc trưởng thành lại có bệnh hoang tưởng, dần dà trở thành trầm trọng, Kim Dung đã dày công nghiên cứu, học hỏi giáo lý các tôn giáo để chữa trị cho con nhưng vô vọng. Ông sống như thiền sư, tìm hiểu triết lý Phật Giáo, nghiên cứu cờ tướng và hành hương các nơi.
Tháng ngày còn lại trong cuộc đời ông với hình bóng Lâm Lạc Di.
Tác Phẩm & Nhân Vật
Trong cuộc phỏng ấn của phóng viên Nam Hoa Bưu Điện với Kim Dung vào mùa nè 1999 tại Hawaii, Kim Dung cho biết: “Tôi viết 15 tác phẩm dài, bộ ngắn nhất cũng 300 trang, bộ dài nhất 2000 trang. Có thể kể ra... Nói cho đúng chỉ có 12 bộ mà thôi nhưng người ta khi dịch thuật và sao chép đã nâng lên 15 bộ, tôi thấy mãi cũng thành quen nên cứ yên trí mình viết được bấy nhiêu”. Nhưng sau khi chỉnh lại để in thành sách, Kim Dung xếp thành 14 bộ cho có hệ thống.
* Thư Kiếm Ân Cừu Lục xuất hiện trên Hương Cảng thương Báo từ trong hai năm 1955 và 1956, gồm 32 hồi, với bối cảnh lịch sử người Nữ Chân, sau đó gọi là người Mãn Châu xâm lăng Trung Hoa, thay vương triều nhà Minh của người Hán lập nên vương triều nhà Thanh (1616-1911); trong quá trình nổi dậy với công cuộc “phản Thanh phục Minh” vào giai đoạn vua Càn Long, giữa thế kỷ XVIII với Trần Gia Lạc, Viên Sùng Hoán, Viên Thừa Chí với các nhân vật hư cấu Hạ Tuyết Nghi, Thiên Sơn Song Ưng, Dư Ngư Đồng, Hương Hương công chúa, Hoắc Thanh Đồng, Lạc Băng và Lý Nguyên Chỉ... Dựa vào cái mốc của lịch sử để lồng vào môi trường sinh hoạt của thế giới võ lâm với công cuộc phục quốc và được tô điểm với những bóng hồng trong võ lâm với tình tiết gay cấn, đầy kịch tính làm cho cốt truyện sinh động, lôi cuốn người đọc. Tác phẩm đầu tay tuy chưa xuất sắc nhưng Kim Dung đã tạo được tên tuổi của ông với những cây bút đi trước trong cùng bộ môn.
* Bích Huyết Kiếm được đăng tải trên Hương Cảng Thương Báo năm 1956 và 1957, gồm 24 hồi, cốt truyện xây dựng trong giai đoạn vào cuối triều đại nhà Minh (1368-1664) vào triều đại Sùng Trinh vào tiền bán thế kỷ XVII. Nhân vật lịch sử là Lý Tự Thành đứng lên dựng cuộc khởi nghĩa, kéo quân từ Tây An về Bắc Kinh, vua Sùng Trinh thất thế, treo cổ tự vận, cáo chung triều đại nhà Minh. Lý Tự Thành liên lạc với tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế đang trấn giữ Sơn Hải Quan, cùng nhau chống quân Thanh nhưng Ngô Tam Quế đã nối giáo với quân Thanh để đàn áp lực lương của Lý Tự Thành. Trong bối cảnh đó, có Viên Thừa Chí, con trai của Viên Sùng Hoán, trong bước đường hành hiệp giang hồ vướng mắc hệ lụy tình cảm với Hạ Thanh Thanh, con của Hạ Tuyết Nghi, với An Tiểu Huệ, với Tiêu Uyển Nhi, với An Cửu công chúa... bên cạnh sứ mệnh dấn thân cho công cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Thành. Hình ảnh Lý Tự Thành của Kim Dung hơi khác với sử liệu mà chỉ với cơ may đưa đẩy nhưng không tròn sứ mệnh. Hình ảnh Kim Sà Lan Quân Hạ Tuyết Nghi với nhân vật hư cấu Ôn Phương Lộc gây ra trận thảm sát cho gia đình ông, từ đó nhiều nhân vật hư cấu khác tạo thành bức tranh sinh động, bi thương, với tình yêu và hận thù chồng chéo lên nhau.
Bi kịch đưa võ lâm vào chốn gió tanh mưa máu bởi Kim Xà bí kíp làm đổi thay nhân tình thế thái.