logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 12/08/2013 lúc 05:25:35(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Thành phần ưu tú nhất trên hoàn vũ đã từng mơ tưởng Canada như đất lành đầy cơ hội cho những ai

muốn mang tài năng và nhiệt huyết ra xây dựng tương lai cho mình và đóng góp cho sự phát triển kinh tế

của một cường quốc đa văn hóa kiểu mẫu trên thế giới. Nhưng rồi họ ngỡ ngàng khi va chạm với thực tế

một khi tới Canada. Tại sao họ lại khó kiếm tiền và kiếm việc so với di dân tới Mỹ và Anh? Như thế

Canada là “Đất thiên đường” hay vùng đất bất hạnh (Land of misfortune)?



Phần sau đây lược dịch từ bài Land of Misfortune đăng trên tờ MacLean’s số tháng Tư 2013, cho thấy

phần nào khó khăn và tình trạng sinh hoạt chung của di dân khi bước tới miền “đất hứa”.

* * *


Đã có lúc Sanjay Mavinkurve và vợ là Samvita Palukone mơ tưởng đến xứ “đất lạnh tình nồng” Canada,

là nơi có chính sách di dân cởi mở và mềm dẻo, một đường lối rất đỗi tự hào bấy lâu nay của xứ sở này

vì vừa hữu ích cho đất nước vừa mang lợi cho di dân. Sau khi lập gia đình vào năm 2008, Marvinkurve,

gốc Ấn nhưng trưởng thành ở Saudi Arabia và tốt nghiệp Đại học Harvard, làm việc ở Silicon Valley, với

vai trò kỹ sư trưởng nhóm có bổn phận thiết kế bản đồ Google cho điện thoại di động. Còn bà vợ

Padukone từng là chuyên viên về tài chính tại một ngân hàng đầu tư lớn nhất Singapore.

Với visa làm việc tạm thời tại Mỹ, Mavinkurve không thể xin phép cho vợ cùng làm việc tại xứ Cờ hoa như

mình được. Thông cảm tình trạng của nhân viên, Google đã tìm cách chuyển Mavinkurve sang một văn

phòng của công ty tại Toronto, nơi này đầy hứa hẹn cho vợ anh là Padukone có bằng cấp về ngân hàng

và kinh nghiệm tài chính quốc tế tìm ra một việc làm thích hợp.

Câu chuyện của họ đã khiến giới truyền thông phía Nam lên tiếng chỉ trích, rằng chính sách di dân mang

tính chất bàn giấy nặng nề của Mỹ đã vô tình xua đuổi đi những nhân tài và có thể khiến cho kinh tế của

nước này có cơ nguy. Trong khi ấy, cặp vợ chồng trẻ di dân mới này ngồi trong một căn hộ ở trung tâm

Toronto dưới lá cờ Canada mỉm cười tràn đầy tin tưởng “đất tốt cò đậu”.

Nhưng cuối cùng giấc mơ “xứ tuyết tình người ấm áp” của cặp vợ chồng Mavinkurve cũng như của nhiều

di dân khác trở thành ảo ảnh, vì họ phải đối phó với thử thách nghiệt ngã là tìm việc làm. Trước mặt họ

chỉ có tuyết lạnh chứ thiếu sự nồng nàn cần thiết!

Padukone cố gắng tìm ra một việc. Gọi hàng trăm cú điện thoại cho các ông chủ công ty chẳng có ma

nào đáp lại. Còn các tay tuyển mộ nhân sự thì bảo cô ta rằng cô khó tìm ra việc thích hợp vì không có

kinh nghiệm tại Canada. Tuy nhiên, cặp vợ chồng trẻ vẫn kiên trì vì họ có họ hàng ở Canada không ít, họ

chấp nhận khởi đầu chậm cũng được, vì “vạn sự khởi đầu nan”. Niềm tin “ngày mai trời lại sáng” của di

dân mới nhập Canada lung lay dần. Nhìn chung quanh tình trạng di dân gặp khó khăn, Mavinkurve không

khỏi ngao ngán vì vợ thất nghiệp. Chàng kỹ sư tài ba tâm sự: “Tôi gắng gạt bỏ đi những ý nghĩ bi quan vì

chắc rằng vợ tôi không ở trong trường hợp này”. Nhưng khi đọc tin thấy có những di dân có văn bằng

PhD. Nhưng phải lái taxi kiếm sống, trong khi trên tivi vẫn quảng cáo: cần di dân tay nghề cao thì

Mavinkurse tỉnh mộng.

Vào cuối 2009, cặp vợ chồng đành phải rời Canada sang Seattle, nơi Padukone cuối cùng xin được visa

làm việc tại Mỹ nhờ được nhận vào làm tại văn phòng chính của Amazon.

Khoảng thời gian ngắn của đôi vợ chồng này ở Canada cho họ biết khá nhiều về tình trạng di dân tới

Canada. Giờ đây, Mavinkurve thẳng thắn nhận xét: “Điều tôi nói ra có lẽ người Canada không muốn nghe

nhưng tôi vẫn nói, phần đông người Canada không tỏ ra mặn mà với di dân”.

Trong khi ấy, chính sách cốt lõi của Canada về di dân, dựa theo tiêu chuẩn cho điểm ứng viên di dân (về

tuổi tác, học vấn, kỹ năng, ngôn ngữ…), được coi như độc đáo so với hoàn vũ, nhắm xây dựng một xã

hội đa văn hóa dựa trên việc thu hút, chọn lọc những thành phần di dân tuổi trẻ, tinh hoa, kỹ thuật cao trên

thế giới để bảo đảm cho việc phát triển thành công nền kinh tế kiểu mẫu. Tuy nhiên, trong những thập

niên gần đây chính sách này chỉ mang lại hậu quả tiêu cực. Mặc dù Canada vẫn muốn thu hút thành phần

công nhân có học vấn cao nhất, nhưng xứ sở này đã chứng kiến một tình trạng suy thoái rõ rệt về đời

sống của lớp di dân ưu tú khi đã trở thành công dân của mình. Sự suy thoái kinh tế này, nhiều quốc gia

tiền tiến đã tránh được.

Theo nghiên cứu của Thống kê Canada (Statistics Canada) trong năm 1970, nam giới di dân tới Canada

kiếm vào khoảng 85 phần trăm so với lương của công nhân sinh trưởng ở Canada, rồi thù lao tăng lên tới

92 phần trăm sau một thập niên ở đây. Vào khoảng những năm cuối của thập niên 1990, họ chỉ kiếm

được chừng 60 phần trăm, rồi sau 15 năm tới xứ này lương bổng của họ chỉ tăng lên vào khoảng 78

phần trăm so với lương công nhân gốc Xứ Lá phong. Trong khoảng thời gian này di dân tốt nghiệp đại

học kiếm trung bình chỉ bằng 67 phần trăm so với lương của dân bản xứ tốt nghiệp đại học.

Mức suy thoái này mỗi lúc một trầm trọng vì càng ngày di dân tới Canada càng có học vấn cao, tay nghề

vững hơn thế hệ trước họ, nên tình trạng thừa người thiếu việc diễn ra ngày một gay gắt.

Thống kê Canada cũng cho biết, trong khoảng thời gian từ 2000 tới 2007, khoảng 80 phần trăm công

nhân tay nghề cao tới Canada có bằng cấp đại học, trong khi ấy so với toàn thể dân Canada thì con số

này chỉ bằng 25 phần trăm. Cho đến nay, khoảng cách biệt lớn nhất về lương bổng giữa di dân và lao

động bản xứ, rơi vào nhóm có bằng cấp đại học. Gần nửa tổng số thành phần di dân nghèo túng trường

kỳ sống ở Canada lại là những công nhân tới Canada theo diện có tay nghề chuyên môn (skilled

workers).

Tình trạng trên ảnh hưởng tới xứ sở này không ít. Canada là một trong những quốc gia thu hút di dân

nhiều nhất thế giới và thu hút được một tỷ lệ di dân tay nghề cao hơn các quốc gia Âu Mỹ. Thế mà thành

phần di dân được chọn vì cho rằng kỹ năng của họ có lợi cho kinh tế (economic migrants) lại chiếm gần

phân nửa tổng số di dân Canada, trong khi ở Mỹ con số này chỉ vào khoảng 16 phần trăm. Tổng trưởng

di trú Canada Jason Kenney phải nhìn nhận tình trạng kinh tế của di dân ở Canada suy thoái, thể hiện

qua sự thất nghiệp hay bán thất nghiệp, là một vấn đề nghiêm trọng (huge problem) tác hại tới sản xuất

và kinh tế của liên bang nói chung.

Trong khi ấy, di dân tới Mỹ có đời sống khả quan hơn vì đồng lương họ kiếm được so với lao động bản

xứ không tạo ra khoảng cách quá xa. Trong năm 1980, di dân tới Mỹ kiếm được khoảng 80 phần trăm so

với công nhân gốc Mỹ; nhưng vào năm 2011, di dân đã kiếm được lương bổng so ra bằng 93 phần trăm

lương lao động gốc Mỹ, trong khi ấy, di dân có bằng cấp đại học còn có chiều hướng kiếm tiền nhiều

hơn công nhân Mỹ cùng đẳng cấp.

Trong kỳ kinh tế suy thoái mới đây tỷ số thất nghiệp đối với thành phần tốt nghiệp đại học gốc di dân

(foreign born) ở Canada là 8,4 phần trăm trong năm 2010 (trong số này những ai ở Canada chưa đầy 5

năm con số thất nghiệp lên tới 14 phần trăm).

Nếu so với Mỹ, trong cùng thời gian, tỷ số thất nghiệp trong nhóm sinh viên ra đời ở xứ khác chỉ bằng 4,4

phần trăm. Ngay cả lúc tình trạng kinh tế xuống mức thấp nhất thì tỷ lệ thất nghiệp của dân Canada tốt

nghiệp đại học cũng chỉ bằng 3,5 phần trăm mà thôi.

Chẳng phải Canada chỉ thua nước láng giềng phương nam mà còn thua cả Anh. Ở Anh quốc, ngoại trừ

di dân Bangladesh, di dân có kỹ năng nghề nghiệp cao, hiện giờ kiếm được tiền nhiều hơn lao động gốc

bản xứ, và con số có việc làm của cả hai nhóm, lao động gốc di dân và lao động bản xứ, cũng ngang

nhau.

Úc trong thập niên 1990 cũng điều chỉnh lại chính sách di dân và ưu tiên cho di dân nào tới Úc có khả

năng kiếm việc làm. Cải cách này đã giúp số việc làm và lương bổng của di dân được cải thiện rõ rệt.

Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD-Organisation for Economic Operation and

Development), thì gần 23% di dân Canada sống trong cảnh túng thiếu (so với con số trung bình trên thế

giới, theo OECD, là 17%). Canada cũng bị coi là quốc gia tệ nhất trong việc tạo điều kiện cho di dân có

việc làm xứng hợp với học vấn, kỹ năng của họ. Do đó, chỉ có 60% di dân Canada có kỹ năng cao làm

công việc thích hợp (trong khi con số bình quân phải là 71%).

Các chuyên gia về kinh tế, chẳng hạn như George Borjas của Đại học Harvard, cho rằng Canada đã thu

nhận số di dân có bằng cấp đại học nhiều hơn mức cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia. Khuyết điểm

này làm đồng lương của họ sụt giảm và làm gia tăng lương lao động không có kỹ năng hoặc học vấn. Ở

Mỹ khác hẳn, làn sóng lao động từ Mễ và Trung Mỹ nhập lậu khiến lương lao động tay chân hạ thấp 20%

kể cả lao động gốc Mỹ thuộc thành phần bỏ dở trung học. Còn lương của thành phần lao động có kỹ

năng cao, được các hãng ở Mỹ bảo lãnh nhập Mỹ, tăng nhanh tới mức 20%.

Một tệ trạng khác thường gặp ở các công ty tuyển dụng ở Canada là đòi người xin việc phải có “kinh

nghiệm làm việc tại Canada” (Canada work experience). Đây là một biện pháp để sàng lọc các ứng cử

viên và gặp nhiều chỉ trích vì tính chất kỳ thị và thành kiến của nó.

Một giáo sư Kinh tế tại Đại học Toronto, Philip Oreopoulos, đã thử cho gửi hàng ngàn “sơ yếu lý lịch”

(resumés) trong đó tên tiếng Anh đổi thành tên kiểu Ấn hay Hoa, thì kết quả thực là đáng ngạc nhiên, vì

số thư trả lời của các các công ty giảm tới 50%. Nhiều chủ nhân công ty cho biết họ chỉ cần đọc cái tên

xa lạ đó đủ biết ứng viên dốt tiếng Anh. Một lý do khác, các người tuyển mộ nhân viên, trước hàng trăm

“resumé”, thường chỉ đọc lướt qua và chọn một vài đối tượng, và ứng viên nào sinh ở xứ khác Canada

rất dễ bị gạt bỏ vì “thiếu kinh nghiệm làm việc tại Canada”.

Các ông chủ Mỹ không phải không kỳ thị, không phải không có thành kiến với di dân. Nhưng thường

thường người lao động nhập cư cần phải có công ty ở Mỹ hứa cho việc làm mới có thể xin di dân chứ

không phải đã tới Mỹ theo diện di dân mới vác đơn xin việc làm.

Canada có khuynh hướng chuyển từ chính sách chọn di dân theo tiêu chuẩn cho điểm (points system)

sang đường hướng để các công ty quyết định họ cần công nhân kỹ năng nào trên thế giới thì được phép

tham dự việc tuyển chọn. Từ lúc đảm nhiệm chức vụ tổng trưởng bộ di trú, Tổng trưởng Jason Kenney

của đảng Bảo thủ đã thực hiện một số thay đổi trong việc tiếp nhận di dân như gia tăng số lượng visa

làm việc tạm thời tại Canada cho công nhân có kỹ năng cao và chuyển bớt quyền quyết định về nhập di

dân cho các tỉnh bang.

Dựa vào chính sách di dân xem ra tiến bộ ở Úc và Tân Tây Lan, Canada ứng dụng biện pháp cho thiết

lập danh sách thành phần muốn di dân làm việc tại Canada. Thành phần này được chọn lọc ngay ở nước

họ và kỹ năng của họ được đánh giá một cách khách quan bởi một cơ quan độc lập. Chủ nhân các công

ty Canada sẽ rà soát danh sách ứng viên lao động có tiềm năng được di dân kể trên và chọn đối tượng

nào thích hợp với nhu cầu của hãng mình. Sau đó các công ty chỉ việc bảo lãnh đối tượng đã chọn và

lịch trình xét duyệt sẽ ngắn hạn hơn rất nhiều so với lối cho điểm di dân cũ kỹ, nặng tính chất bàn giấy

của Ottawa đã làm trước đó.

Tuy nhiên, lối chọn di dân này cũng gặp một số chỉ trích. Những đối tượng được các công ty chọn lựa

có thể thỏa mãn nhu cầu của công ty trong thời gian trước mắt, nhưng năm mười năm sau đó thì sao?

Số phận di dân này sẽ như thế nào? Hơn nữa, theo lối này công nhân nhập cư sẽ phải phụ thuộc quá

nhiều vào công ty đã chọn mình và dễ dàng bị chủ nhân bóc lột.

Chọn lao động di dân theo thang điểm (point system) hay chọn theo nhu cầu của công ty (employer

driven system) đều đòi hỏi sự cân nhắc trong việc áp dụng chính sách thu nhận di dân vào Canada. Ý

kiến chung là phải có sự phối hợp ưu điểm giữa hai cách chọn lựa để kinh tế có thể phát triển hữu hiệu

và lâu dài. Có như thế mới bảo đảm cho di dân có công ăn việc làm thích hợp và tránh được cái vòng

luẩn quẩn thất nghiệp và nghèo túng.


Chu Nguyễn
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.219 giây.