Nghệ thuật gốm là một thứ văn hóa dân gian, được hình thành và phát triển từ xa xưa, đã qua nhiều thiên niên kỷ. Sản phẩm của người thợ gốm, trước tiên là vì nhu cầu thực dụng, rồi dần dà, ngày càng được nâng cấp mà thành nghệ thuật.
.
GỐM VIỆT NAM QUA CÁC CHẶNG ĐƯỜNG, TỪ PHÙNG NGUYÊN, ĐỒNG ĐẬU, GÒ MUN ĐẾN THỜI BẮC THUỘC
.
Khảo cổ học đã chỉ cho chúng ta nhiều bằng chứng về sản phẩm gốm trong các di chỉ văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun. Giai đoạn Phùng Nguyên, cách đây khoảng 4,000 năm, tổ tiên chúng ta đã tạo ra được các loại gốm như nồi, vò, bình, chậu, quả bồng, bát, cốc, đĩa có hình dáng đẹp, chắc, khỏe. Các sản phẩm ấy được trang trí tinh xảo bằng những hoa văn tiếp nối nhau, những đường vạch sắc sảo, những nét cong uyển chuyển, mềm mại, đối xứng, và hài hòa. Đó là các đồ gốm thô không phủ men. Một số sản phẩm khác được áo phủ một lớp màu ra bên ngoài, là màu đất đỏ, vàng, nâu, tức là những màu đất khác với xương đất của sản phẩm, càng làm cho bắt mắt và đẹp thêm, tỏ rõ một ý thức thẩm mỹ đã phát triển cao và thực đáng kể. Thời kỳ này, Việt Nam cổ đại đã bước vào thời đồ đồng, vậy nên các loại hoa văn trang trí trên gốm có ảnh hưởng qua lại với trang trí đồ đồng cùng thời là chuyện dễ hiểu.
.
Người ta đã biết sử dụng bàn xoay để chế tác sản phẩm gốm một cách thành thạo, và đã biết nung với độ lửa già nhất. Bên cạnh các đồ dùng cần thiết hàng ngày, còn có những sản phẩm trang trí như tượng gà, tượng bò, những đồ trang sức như hoa tai, chuỗi hạt, vòng tay bằng gốm ở các di chỉ Phùng Nguyên, Gò Bông, Gò Chiền, Tràng Kênh, Đồng Đậu, Gò Mun ở miền Bắc và di chỉ Sa Huỳnh ở miền Nam Trung Bộ.
.
Bình gốm hoa lam Chu Đậu, thế kỷ 15 – 16. Cao 56.5 cm, đường kính miệng 23.8cm, đường kính đáy 25.8 cm, nặng 15.6 kg, được tìm thấy trong đợt khai quật tàu đắm ở Cù lao Chàm vào năm 1997-1999. Hiện thuộc bộ sưu tập Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia, Hà Nội. Ảnh tư liệu: Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia.
.
Từ thế kỷ thứ II trước công nguyên, đất nước ta rơi vào bóng đêm Bắc thuộc, kéo dài đến cả ngàn năm sau. Thời kỳ này, người sản xuất gốm bản địa đã tiếp thu được kỹ thuật gốm của phương Bắc. Loại gốm được gọi là “Hán bản địa” là gốm nửa đất nung nửa sành xốp, hoặc không men, hoặc có men trắng đục, làm theo dạng gốm Hán Trung Hoa. Các nhà nghiên cứu lịch sử và mỹ thuật Việt Nam thường cho rằng các sản phẩm gốm này luôn luôn chứa đựng sâu sắc tình cảm và dấu ấn Việt Nam; họ muốn nói rằng văn hóa Việt Nam dù chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Trung Hoa nhưng vẫn là một nền văn hóa riêng biệt khác hẳn Trung Hoa.1
.
Năm 1934-37, các cuộc khai quật của Olov Jansé thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ đã tìm thấy nơi những mộ cổ kiểu Hán những đồ gốm tùy táng có màu trắng hay vàng nhạt đơn sắc, trên những đồ vật này có những vết men hay giọt men trông rất đẹp và lạ ở vùng Thanh Hóa.2
.
Người ta cũng đã phát hiện một số lò gốm và mộ táng với nhiều gạch nung và đồ gốm mang tính cách Đông Hán – Lục Triều (thế kỷ II-IV) và muộn hơn vào thời nhà Đường (thế kỷ VII-IX) ở châu thổ sông Hồng và Thanh Hóa.
.
Ngàn năm Bắc thuộc tất nhiên cũng đã để lại một số di chứng. Vấn đề Hán hóa là một thực tại. Hệ tư tưởng Khổng Nho thống trị xã hội. Đồ gốm thì phải là gốm sứ của Tàu mới được xem trọng. Những thống, bình, chóe bày trên án thờ, tủ chè, hay ở phòng khách của tầng lớp quan lại, phú hào, phải là đồ sứ Cảnh Đức Trấn đời Tống, Minh, Khang Hy, Càn Long, hoặc là gốm sứ ký kiểu men lam Huế. Có thể bắt nguồn từ bối cảnh trên, các học giả phương Tây bị che mờ bởi sự nhầm tưởng hay định kiến đã đi đến nhận thức sai lầm, cho rằng gốm Việt Nam chỉ là một mảng nhỏ của gốm sứ Trung Hoa, một bản sao chép mờ nhạt của nghệ thuật gốm Trung Hoa.
.
Đĩa gốm men lam Chu Đậu, vẽ chim ngỗng trời và hoa mẫu đơn, thế kỷ XV – XVI. Ảnh tư liệu Butterfields, 2000.
.
Nhưng nhận thức về lịch sử không phải là bất biến trong quá trình phát triển của chính nó. Ngày nay, nghệ thuật gốm Việt Nam đã được công nhận trên khắp thế giới. Đã có các công trình nghiên cứu sâu rộng của những nhà chuyên môn thẩm quyền 3 , đã có các cuộc hội thảo khoa học về đồ gốm Việt Nam4, nhiều nhà bảo tàng danh tiếng cân nhắc gìn giữ gốm Việt Nam5, và cũng phải kể đến những nhà sưu tập yêu chuộng mỹ thuật và văn hóa sử ham mê đi tìm vết tích mỹ thuật gốm Việt Nam.
.
Và như vậy, lý lịch văn hóa của gốm Việt Nam giữa vùng Đông Nam Á đã được khẳng định. Không còn như cách đây khoảng vài mươi năm, chẳng có mấy ai dù là chuyên viên thượng thặng đi nữa, có thể dễ dàng nhìn ra đâu là gốm Việt Nam. Nhà nghiên cứu Hòa Lan Van Orsoy de Flines, giám đốc đầu tiên của bảo tàng viện Jakarta, nhà sưu tập đáng kể về đồ gốm Việt Nam, cho rằng phải có con mắt lịch lãm với nhiều kinh nghiệm sâu xa, thì mới có thể nhận ra sự khác biệt giữa gốm sứ Trung Hoa và Việt Nam, mới thấy ra được đâu là sự khác biệt nơi nước men cũng như hình dáng của bình, vại; phải đụng chạm, sờ mó mấy cổ vật ấy thì may ra mới có thể cảm nhận một cách đúng mức đó là gốm Việt Nam, chứ không phải là gốm đời Minh của Trung Hoa, sẽ thấy ra tính cách không Trung Hoa nơi các đồ gốm gốc Đông Nam Á này6, ý kiến của Van Orsoy de Flines được đưa ra từ năm 1949, nhưng may thay, ngày nay vấn đề đã khác hẳn hoàn toàn rồi.
.
ÁNH SÁNG CỦA THỜI TỰ CHỦ: MỸ THUẬT GỐM LÝ – TRẦN
.
Đĩa gốm men lam Chu Đậu, vẽ con ngựa cất cánh bay lên giữa những vầng mây thần thoại, thế kỷ XV – XVI. Ảnh tư liệu Butterfields.
.
Đĩa gốm men lam Chu Đậu, vẽ người cỡi ngựa vung roi, giật giây cương để thuc ngựa phi nhanh, được tìm thấy trên chiếc tàu đắm ngoài khơi Hội An từ 500 năm trước. Cao 5.6 cm, đường kính 24.5 cm. Khoảng thế kỷ XV – XVI, sưu tập Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam.
.
Bóng đêm dày đặc của đế quốc phương Bắc kéo dài một ngàn năm. Mặc dù vậy, tổ tiên chúng ta vẫn luôn luôn tìm cách đứng lên để lập lại nền độc lập dân tộc. Bị đàn áp nhưng vẫn dũng cảm, bất khuất, đó chính là bản lĩnh và tính cách của một nòi giống. Năm Kỷ Hợi (939) là bước đầu khi Ngô Quyền xưng vương ở Cổ Loa, qua đến Đinh Tiên Hoàng (968-980) đến thời Lê Đại Hành ( 980-1009), rồi đến thời Lý Thái Tổ (1010-1028), lá cờ dân tộc được dựng lên mạnh mẽ trên đất nước Đại Việt, hỗ trợ vào đó là tinh thần Phật Giáo, một nền văn hóa Việt như chưa từng thấy đã hình thành và phát triển vô cùng rực rỡ.
.
Thái Bá Vân đã đúc kết về thời đại này một cách khá xác đáng: “Tổng đề Đại Việt là chính đề phục hưng những giá trị nghệ thuật cổ đại của mình, mặt khác là sự ứng phó với phản đề đồng hóa của đế chế Trung Hoa sau mười thế kỷ xâm lăng và tàn phá văn hóa Việt Nam”7
.
Riêng trong lãnh vực mỹ thuật gốm, chúng ta sẽ thấy rõ qua những biến chuyển từ gốm men ngọc, gốm hoa nâu, rồi gốm hoa lam đã có từ thời Trần, phát triển mạnh nhất vào thời Lê – Mạc, và gần đây đã trở nên quen thuộc trên khắp thế giới.
.
Những bình, lọ, âu, liễn, chén bát gốm men ngọc rất thanh nhã với màu men xanh dịu, xanh lục, đôi lúc ngã sang vàng úa hay ngã sang nâu, cũng có lúc rất đậm đà như màu xanh olive, và còn đậm màu hơn nữa, gần như xanh đậm, và những nét vẽ trang trí mềm mại, đơn giản như hoa cúc, phù dung, cánh sen. Hình cánh sen, hoa sen thường gặp thấy rất nhiều, hẳn rằng tinh thần Phật Giáo đã chìm lắng sâu đậm vào các sản phẩm gốm thanh tú ấy. Những nét vẽ được khắc chìm xuống xương đất, rồi phủ men lên toàn thể sản phẩm, tạo nên một vẻ thanh nhã trầm lắng.
.
Cầm cái bát, cái đĩa, cái âu men ngọc trên tay, chúng ta sẽ thấy ra một vẻ đẹp kỳ diệu không phải chỉ của con người làm ra, mà có cả sự can thiệp của hóa công, một hợp thành của đất và lửa, của màu men và hình thể, của nét vẽ và dáng hình. Đúng như tên gọi, gốm men ngọc có cái đẹp sang trọng, trang nhã như ngọc thạch, có lúc gờn gợn như vân gấm ẩn hiện dưới lớp men trong.
.
Các nhà nghiên cứu cổ sử và mỹ thuật Hà Nội đã tìm được ở hai khu vực Thăng Long và Thanh Hóa nhiều đồ gốm men ngọc quý. Thêm vào đó là các chồng bát đĩa men ngọc nung hỏng dính lại từng chồng vào nhau. Điều này càng xác định thêm đây là sản phẩm bản địa, chứ không phải là gốm Trung Quốc du nhập vào như một số người nhầm tưởng.
.
Victor Goloubew và B.P.Groslier cho rằng gốm Thanh Hóa có nguồn gốc Trung Hoa8, nhưng việc tìm lại được nhiều dấu vết về các lò gốm trong vùng này cùng với các sản phẩm gốm cho thấy rằng ý kiến của các học giả này không còn đứng vững.
.
Các loại gốm men ngọc hầu hết đều có xương gốm mịn, rắn chắc và nặng vì chất đất làm gốm được lọc rất kỹ, và được nung ở một nhiệt độ cao; khi gõ vào, âm thanh vang như tiếng chuông9.
.
Mảnh vỡ đĩa gốm men lam Chu Đậu, thế kỷ XV – XVI, tìm thấy trong cuộc khai quật từ chiếc tàu đắm ngoài khơi Hội An, gần Cù lao Chàm. Ảnh tư liệu Công Ty Đấu Giá Butterfields. Fine Asian Works of Art including Treasures from the Hoi An Hoard, Butterfields, San Francisco, 2000.
.
Vò gốm men lam Chu Đậu với dạng chim hai đầu. Khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, cao 21.1 cm. Ảnh tư liệu Butterfields.
.
Chuyên gia về kỹ thuật gốm Trần Khánh Chương còn cho biết thêm, men và xương đất của gốm men ngọc có nhiều tạp chất sắt nên những chỗ men bị co, rạn, thường thấy lộ ra những mảng màu hung hung đỏ. Từ đặc điểm này, có thể xem đó cũng là một tiêu chuẩn để xác định gốm men ngọc 10.
.
Cũng vào thời kỳ này, cùng với gốm men ngọc, còn có gốm men trắng đục, và rất đặc biệt là gốm hoa nâu, ra đời và phát triển khoảng thế kỷ XI-XIV, thời Lý – Trần.
Gốm hoa nâu rất riêng biệt về tạo dáng cũng như trang trí, góp phần khẳng định ngôn ngữ gốm Việt Nam, độc đáo so với bất kỳ loại gốm nào khác trên thế giới. Loại gốm này là sành xốp, xương đất thô, dày và nặng; tráng men trắng ngà, các hình trang trí được khắc rất đơn giản rồi tô vẽ màu nâu hay son đậm. Quan sát những hiện vật gốm hoa nâu, chúng ta thấy lớp men phủ thường rạn nứt đều khắp; hoa nâu, men ngà, và những rạn nứt tự nhiên tạo nên một sự hài hòa tuyệt đẹp 11.
.
Những thạp, thống, âu, chậu, liễn và những ấm, bát, đĩa với dáng hình đầy đặn, khỏe khoắn, vững chãi; với hình và nét trang trí giản dị, dứt khoát, đậm đà, thoáng đãng, không dày đặc. Hình tượng trang trí đều bắt nguồn từ thiên nhiên và cuộc sống hiện thực chung quanh, được cách điệu rất mới, và không gượng ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc có sẵn từ trước. Những hình ảnh ấy là mây, hoa lá, hoa sen, hoa súng, hoa cúc, chim chóc, công, cò, diệc, cá, voi, hổ, võ sĩ giao đấu...
.
Chiếc thạp vẽ hình hai chiến binh tay cầm giáo, tay cầm khiên, trên vế đùi người chiến sĩ có dấu chàm thích hình rồng là vết tích của tục xâm hình của người Việt cổ, mà đặc biệt ở thời Trần, các vua Trần vẫn vẽ mình để nhớ về nguồn gốc (H.107). Chiếc thạp quý hiếm này như luôn gợi nhắc về một thời kỳ lịch sử hùng tráng với bao nhiêu chiến trận hiển hách, các danh tướng hào hùng, quân dân thống nhất ý chí chống ngoại xâm vô cùng dũng mãnh. Để rồi sau bao nhiêu trận chiến ác liệt, đất nước vẫn cứ vững như bàn thạch như lời Thượng hoàng Trần Thánh Tông:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông thiên cổ vững âu vàng 12
Trước khi đề cập tiếp về gốm hoa lam, chúng tôi muốn dẫn lại ở đây ý kiến rất tinh tế của nhà sưu tập cổ ngoạn Bùi Ngọc Tuấn nói về tính khác biệt giữa gốm Việt Nam và gốm Trung Hoa. Người thợ gốm Việt Nam dù có học được vài kỹ thuật nghề nghiệp của phương Bắc nhưng về phương diện nghệ thuật thì không có mấy chút ảnh hưởng, đã thể hiện một tinh thần sáng tạo rất phóng túng, ngược lại với văn hóa Trung Hoa vốn nhiều khuôn thước gò bó.
.
“Người nghệ sĩ Trung Hoa vẽ đồ gốm một cách cẩn trọng, tỉ mỉ, họ vẽ như người quan sát thiên nhiên một cách khách quan, tuân theo những quy luật nhất định, đường thẳng y như kẽ thước, đường cong như cánh cung, bên phải bên trái đối xứng, bên trên bên dưới đều đặn. Đề tài rất tôn nghiêm, họ vẽ như cử hành một nghi lễ.
Trong khi đó người nghệ sĩ Việt Nam vẽ tự nhiên, vẽ thoải mái, vẽ như chơi, như thả diều, như đánh đáo, vẽ tự nhiên như ăn như ngủ. Đề tài là hoa, là lá, là chim, là thú, là côn trùng, là thảo mộc của đồng ruộng, thôn quê kề cận bên mình, như chim sẻ, như tôm, như cua, chuồn chuồn, cóc nhái.
Họ vẽ đời sống nông thôn của họ lên các món đồ gốm đó. Họ và đề tài của họ là một. Con chim sẻ, con cá bống, con chích chòe sống trong người họ rồi tràn ra nét bút tự nhiên, sống động, không cố gắng.
Đồ gốm của Tàu đẹp như một cô gái trang điểm lộng lẫy, đồ gốm Việt đẹp như cô gái hàng xóm thơ ngây, Một bên đẽo gọt tinh xảo, một bên mộc mạc đơn sơ, một bên là cái đẹp của trí tuệ, một bên là cái đẹp của tâm hồn.” 13
.
GỐM HOA LAM
.
Gốm hoa lam xuất hiện khoảng cuối thế kỷ XIV thời Trần, phát triển rực rỡ vào thời Lê – Mạc, thông dụng khắp nơi từ cung đình đến ngoài dân dã. Ngày nay, gốm hoa lam vẫn còn tiếp tục sản xuất ở Bát Tràng14 và một số cơ sở làm gốm khác.
.
Kỹ thuật cao, nghệ thuật hấp dẫn, gốm hoa lam chiếm lĩnh một vị trí đặc biệt, thay thế vai trò gốm hoa nâu trước đây.
Gọi là gốm hoa lam vì tất cả hình vẽ trang trí đều dùng màu xanh lam cobalt để thực hiện. Màu lam dưới lớp men trắng phải nung với độ lửa cao thì mới lộ ra được nguyên sắc, cùng với xương đất mịn vì đã lọc luyện kỹ, gốm hoa lam trở thành một loại sành sứ trắng, có độ rắn và đanh hơn sành xốp hoa nâu.
.
Hình trên: Vò gốm men lam Chu Đậu, thế kỷ XV – XVI. Ảnh tư liệu Butterfields, 2000. Hình dưới: Chi tiết của vò gốm bên trên. Ảnh tư liệu Butterfields, 2000.
.
Các hình trang trí được vẽ trực tiếp trên xương đất, vẽ hoàn tất mới phủ men nên gọi là gốm vẽ dưới men (underglaze); hoặc vẽ trên xương đất, dù chưa qua lò nung nhưng đã được phủ sẵn một lớp men, vẽ xong thì mới phủ một lớp men mỏng ra bên ngoài. Còn một cách khác nữa là vẽ trên xương đất đã tráng men (Overglaze), không tráng thêm lớp men nào khác trước khi đưa vào lò nung.
.
Về kỹ thuật trang trí thì hoàn toàn khác với trước đây, không còn là những nét khắc chìm trên xương đất rồi tô màu nâu hay son đậm như hoa nâu. Nghệ thuật gốm hoa lam hay dùng bút lông để vẽ, có thể phóng bút bay bướm hay tỉa vẽ tỉ mỉ công phu, hoặc bôi loang cả một mảng màu, hoặc tạo nên những hòa sắc đậm nhạt gần như tranh vẽ trên giấy, trên lụa.
.
Chiếc “Bình An Nam” hiện thuộc sưu tập Bảo Tàng Topkapi Saray, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, là một dấu vết rất đặc biệt của nghệ thuật gốm hoa lam. Trang trí hình dây hoa mẫu đơn và những đường hồi văn màu xanh lam dưới lớp men trong. Trên bình có dòng lạc khoản: “Đại hòa bát niên Nam Sách Châu tượng nhân Bùi thị hý bút.” Nhờ dòng chữ này mà giới nghiên cứu xác định được niên đại và phần nào về người tạo tác sản phẩm. Dòng chữ ấy có nghĩa là “Năm Đại Hòa thứ tám, nghệ nhân họ Bùi ở Châu Nam Sách vui đùa cầm bút vẽ.” Tra sử sách, chúng ta biết năm Đại Hòa thứ tám, tức năm 1450 Dương Lịch, thời vua Lê Nhân Tông. Vua Lê Nhân Tông (1443-1459) có niên hiệu Đại Hòa (1443-1453), rồi cải niên hiệu là Diên Ninh (1454-1459).
.
Ông Makoto Anabuki, tham vụ Đại Sứ Quán Nhật Bản ở Việt Nam, trong một chuyến công du Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1980, nhìn thấy bình gốm hoa lam này. Ông đã thông báo cho giới khảo cổ học Việt Nam, và ngày nay, lý lịch của chiếc bình gần như đã được xác định, không còn bị nhầm lẫn là một sản phẩm gốm Trung Hoa như trước đây nữa. Từ thập niên 1930, cổ vật này đã được các chuyên gia về gốm của thế giới đề cập đến, đáng kể đầu tiên là R.L.Hobson với bài giới thiệu “Đồ Sứ Trung Hoa ở Constantinople” (Chinese Porcelain at Constantinople) công bố trong Transactions of the Oriental Ceramic Society năm 1933 15.
.
Bình gốm này là sản phẩm của làng Chu Đậu, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, ở phía tả ngạn sông Thái Bình, một làng nghề về gốm nổi tiếng thời Lê nhưng đã thất truyền. Cách đây hơn 500 năm, người nghệ sĩ dân gian tài hoa họ Bùi của làng Chu Đậu, một hôm nào đó, đã tỉa vẽ công phu trên xương đất của chiếc bình gốm ấy trước khi phủ men trong và đưa vào lò nung, đã để lại cho đời một kỳ tác tuyệt hảo, được khắp nơi trân quý và trọng vọng cho đến ngày nay.
.
Đã xác định được niên đại và nguồn gốc sản phẩm, tuy thế, với hình vẽ trên chiếc bình, chúng ta cũng phải thừa nhận là nó có ẩn chứa nhiều dấu vết của nghệ thuật phương Bắc. Hoa mẫu đơn tượng trưng của sự thanh nhã và phú quý (hoa khai phú quý) là hình ảnh quen thuộc của nghệ thuật Trung Hoa. Những cánh sen cách điệu hình kép nơi sát đáy bình là đồ án trang trí có thể tìm thấy trên một số bình gốm đời Nguyên và Minh. Có thể đây chính là ấn tượng mạnh tạo nên sự nhầm lẫn về nguồn gốc của chiếc bình gốm “An Nam” này.
Nhờ vào những hiểu biết chung quanh chiếc “bình gốm An Nam” ở Istanbul, giới khảo cổ học Việt Nam tiến hành các đợt khai quật ở Chu Đậu và tìm được vô số dấu tích gốm cổ Chu Đậu men lam, men ngọc, men trắng, men tam thái với ba màu nâu, đỏ, xanh lục.
.
Rồi một biến cố khác nữa là việc phát hiện ra chiếc tàu đắm ngoài khơi Hội An, cách cù lao Chàm 14 hải lý về phía Đông Bắc. Cuộc trục vớt hàng vạn cổ vật gốm từ chiếc tàu nằm dưới đáy biển hơn ½ thiên niên kỷ đã mở lại một trang sử đã chìm vào quên lãng của nghệ thuật gốm Việt Nam. Chúng ta có thể hình dung việc xuất khẩu các sản phẩm gốm Chu Đậu ở Hải Dương qua một thương cảng nào đó ở Bắc Bộ, có thể là Vân Đồn hay Phố Hiến, rồi sẽ theo cuộc viễn du của các thương thuyền đi về phương Nam để đến các nước Đông Nam Á và hải đảo.
.
Mấy chữ “Treasures from the Hoi An Hoard” (Kho tàng khai quật ngoài khơi Hội An) do công ty Butterfield & Butterfield đưa ra như một tiêu đề quảng bá, nay đã trở thành một cụm thuật ngữ để nhắc đến biến cố trục vớt những di vật này. Lịch sử mỹ thuật gốm Việt Nam đã ghi được một dấu mốc rất đặc biệt từ đây, từ văn hóa, mỹ thuật đến mậu dịch, kinh tế, thương mãi 16.
.
Hãy thưởng lãm một vết tích bậc nhất của gốm hoa lam, là chiếc bình độc bản được tìm thấy từ cuộc khai quật ấy, giữa các năm 1997-1999, hiện được xếp loại là Bảo Vật Quốc Gia, và đang tàng trữ ở Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam. Là cổ vật có kích thước lớn nhất của nghệ thuật gốm hoa lam Việt Nam, cao 56.5cm, chính yếu vẽ bốn con ngỗng trời, con bay, con đậu giữa cây cỏ, thiên nhiên, với một bút pháp rất linh hoạt, sống động. Ngoài 4 con chim trời ở trung tâm của toàn cảnh, còn có một số đồ án trang trí khác: dải hoa dây vòng quanh sát miệng bình; những cụm mây liên tiếp nối kết nhau; những làn sóng nước; những cánh sen kiểu thức hóa hình kép, bên trong có các vòng xoắn ốc; sát đáy bình là những chiếc khánh đều đặn thanh nhã điểm xuyết cho toàn bộ hình vẽ trên chiếc bình thêm phần chặt chẽ.
Lặng lẽ chiêm ngắm cổ vật quý giá này, chúng ta sẽ nhập được vào một vẻ đẹp rất phóng túng, dào dạt, tự nhiên nhưng cũng rất nghiêm ngặt với qui cách đòi hỏi cố hữu của nghệ thuật trang trí cổ Á Đông.
.
Gốm hoa lam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 đã để lại nhiều sản phẩm đẹp và quý, với kỹ thuật thực hiện và phong cách riêng biệt, tạo nên một sắc thái nghệ thuật dân tộc đáng kể. Trang trí trên gốm hoa lam thật hết sức phong phú, vẽ lại thế giới tự nhiên chung quanh, từ cây cỏ, hoa lá, hoa mẫu đơn, cúc, hoa sen, chim chóc, gà, cò, bồ nông, chích chòe, côn trùng, chuồn chuồn, tôm, cua, cá, đến voi ngựa, nhà cửa, con người.
.
Trong cuộc đấu giá ở San Francisco vào tháng 10 năm 2000, công ty Butterfields tổ chức để bán các vật trục vớt từ vùng biển ngoài khơi Hội An, riêng về hình tượng con ngựa, chỉ nhìn thoáng qua mà có người đã phỏng chừng đến hơn 100 ngoạn vật với những nét vẽ rất tài tình về con ngựa, lúc thì ngựa phi nước đại, lúc thì cất cánh bay lên giữa những vầng mây-thần-thoại-cổ-tích, có khi lại như đang lơ đãng lững thững bước đi. Trên một đĩa men tam thái, con ngựa không còn là ngựa nữa mà đã hóa thành kỳ lân; hẳn rằng đây chính là con long-mã (cheval-dragon) như cách gọi tên con kỳ lân ở Huế. Trong kho tàng gốm Chu Đậu, chúng ta có thể tìm thấy nhiều hình vẽ về con long- mã này.
.
Giữa những dáng ngựa ấy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên và thích thú khi nhìn ngắm hình ảnh một người cỡi ngựa, cầm dây cương và cây roi vung cao để thúc ngựa phi nước đại (H.316). Người cỡi ngựa và con ngựa chỉ được phác vẽ với vài nét đơn sơ; có lẽ đây là nét vẽ của một đứa trẻ chưa có đủ nhận thức, hoặc của một người trưởng thành vẽ-mà-chưa-biết-vẽ. Chính vì thế, chúng ta đã gặp được nơi đây một thế giới ngây thơ rất kỳ lạ. Cường điệu một chút, có thể nói đây là bản vẽ của một bậc thượng thừa đã đạt đến một cảnh giới rất cao của hội họa và đã biết làm thế nào để loại bỏ tất cả để chỉ còn giữ lại một bầu khí tinh khôi hồn nhiên và trong trẻo biết bao 17.
.
Thời nhà Mạc (1527-1592), dòng nghệ thuật dân gian phát triển một cách đặc biệt; một thể loại gốm hoàn toàn mới ra đời, là chân đèn và lư hương phủ men trắng ngà, kết hợp những họa tiết, nét vẽ men lam và hình đắp nổi (xem H.169, H.322, H.323). Đó là chiếc đèn cao chừng 0.60cm đến 0.80cm, dáng như một bình hoa vẽ lân, phụng hoàng men lam, thân đèn thì đắp nổi hình rồng uốn khúc với nguyên màu đất nung đỏ hồng duyên dáng. Hoặc chân đèn như một cành tre, hoặc dáng khác hình trụ vuông mà thân đế là một con kỳ lân đứng rất vững chắc. Có một điểm đặc biệt chưa từng thấy trên các đồ gốm thờ tự này, là người nghệ sĩ dân gian đã ký tên trên sản phẩm của mình tạo tác, cùng với quê quán nghệ nhân và năm chế tác, như các chân đèn do Đặng Huyền Thông chế tạo. Người nghệ sĩ gốm ký tên trên tác phẩm của mình cho thấy là tác giả rất được trân trọng chứ không còn như trước đây nũa, nghệ sĩ vẽ tranh, tạo hình, thường được gọi chung là “thợ mã”. Có người cho rằng vì yêu cầu của sự buôn bán qua lại với nước ngoài vào thế kỷ 16 phát triển mạnh đã đặt ra điều đó.