Bài này được viết để hồi hướng các thiện hạnh có được để nguyện xin bình an và giải thoát cho tất cả đồng bào nơi quê nhà, vá cho chúng sanh khắp ba cõi sáu đường. Trong bài là một số ghi chú trong khi đọc Kinh luận, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Các đề tài phần lớn ít được nhắc tới, nhưng đa dạng, có thể là quan tâm của nhiều người, từ thắc mắc rằng có khi nào Đức Phật đã dạy về ăn chay, cho tới câu hỏi có cần tu đầy đủ tứ thiền bát định hay không, và vân vân. Nơi đây sẽ tránh các lý luận phức tạp, chủ yếu ghi các lời dạy thực dụng từ Kinh luận để tu tập. Bản thân người viết không có thẩm quyền nào, do vậy phần lớn sẽ là trích dẫn Kinh luận.
.
--- Phải quán sát liên tục: sẽ già, sẽ bệnh, sẽ chết, sẽ ly biệt, sẽ đi theo nghiệp
Đức Phật dạy trong Kinh AN 5.57 rằng tất cả, dù xuất gia hay tại gia, dù nam hay nữ, đều phải thường xuyên quán sát: Mình sẽ già, mọi người sẽ già; Mình sẽ bệnh, mọi người sẽ bệnh; Mình sẽ chết, mọi người sẽ chết; Tất cả những gì thân thương rồi sẽ biến mất; Nghiệp thiện ác mình làm sẽ cuốn trôi mình đi. Có thể ghi nhớ lời vắn tắt là: sẽ già, sẽ bệnh, sẽ chết, sẽ ly biệt, sẽ đi theo nghiệp. Đức Phật nói, hễ quán sát liên tục như thế cũng sẽ giải thoát. Tức là, niệm vô thường, niệm khổ thường xuyên như thế, sẽ tới lúc giải thoát. Kinh AN 5.57 bản dịch Thầy Minh Châu, viết:
"Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện ấy, con đường được sanh khởi. Vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, nên các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt." (1)
--- Đắc tứ thiền bát định vẫn có thể bị chệch hướng
Trong Trung Bộ, Kinh MN 113, bản dịch của Thầy Minh Châu, ghi rằng Chân nhân pháp là đúng hướng, phi Chân nhân pháp là chệch hướng. Người phi Chân nhân có thể thành tựu cả tứ thiền bát định (sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, định Không vô biên xứ, định Thức vô biên xứ, định Vô sở hữu xứ, định Phi tưởng phi phi tưởng xứ) nhưng đều có thể chệch hướng. Chỉ tới Diệt thọ tưởng định, lậu hoặc mới diệt trừ, được tâm vô sở trụ, vào chỗ vô tâm (tỉnh thức, nhưng không nghĩ tới bất kỳ vật gì, việc gì) mới xong (nên nhắc: theo Huệ Năng, Trần Nhân Tông, và Kinh Bahiya, vào vô tâm thực ra có thể đi thẳng, không cần tuần tự qua tứ thiền bát định). Kinh MN 113, trích như sau:
“Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân pháp diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm … Thiền thứ ba … chứng và trú Thiền thứ tư. Người ấy suy nghĩ như sau: “Ta chứng đắc định Thiền thứ tư, còn các Tỷ-kheo này không chứng đắc định Thiền thứ tư”. Người ấy vì chứng đắc định Thiền thứ tư ấy nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau: “Định Thiền thứ tư, tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác”. Người ấy sau khi lấy vô tham ái làm chánh yếu, không khen mình chê người vì chứng đắc định Thiền thứ tư. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
... (tương tự với định Không vô biên xứ, định Thức vô biên xứ, định Vô sở hữu xứ, định Phi tưởng phi phi tưởng xứ)…
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người Chân nhân sau khi vượt lên Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định, sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này không nghĩ mình là bất cứ vật gì, không nghĩ đến bất cứ chỗ nào, không nghĩ đến bất cứ vì sự việc gì.” (2)
.
--- Có cả định và huệ vẫn có thể chệch hướng, bị gọi là ác tri thức
Trong Tăng Nhất A Hàm, Kinh EA 17.9, có trường hợp bị gọi là ác tri thức, dù đã có định và tuệ. Bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng, trích như sau:
“Lại nữa, người ác tri thức lại tự nghĩ: ‘Ta thành tựu tam-muội, các Tỳ-kheo khác không có tam-muội, tâm ý thác loạn không nhất định.’ Người ấy ỷ vào tam-muội này thường tự cống cao chê bai người khác. Đó gọi là pháp ác tri thức.
“Lại nữa, người ác tri thức lại tự nghĩ: ‘Ta trí tuệ bậc nhất. Ở đây các Tỳ-kheo khác không có trí tuệ.’ Người ấy ỷ vào trí tuệ này mà tự cống cao hủy báng người khác. Đó gọi là pháp ác tri thức.” (3)
Tương tự, Kinh MA 85, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ, cho biết đắc tứ thiền bát định vẫn có thể là phi pháp, trích:
"Lại nữa, hoặc có người được Nhị, Tam, Tứ thiền; được Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, người khác không được như vậy. Người kia nhân vì được phi tưởng phi phi tưởng xứ nên quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân." (3)
.
--- Có thần thông, thấy kiếp trước, đắc tứ thiền, vẫn có thể chệch hướng
Trong Trường Bộ, Kinh DN 1, bản dịch của Thầy Minh Châu, cho biết có vị đắc thần thông, nhớ kiếp trước, đắc tứ thiền, đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn, chấp trước sự tối thượng hiện tại Niết Bàn, thế là chệch hướng. Kinh DN 1 trích như sau:
“…Sau khi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ đến đời sống quá khứ ấy, nhưng không nhớ xa hơn đời sống ấy.
Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói bản ngã ấy không có. Nhưng bản ngã ấy như thế, không phải hoàn toàn đạt đến tối thượng hiện tại Niết bàn. Vì cớ sao? Vì ở đây tâm thọ lạc nên gọi là thô tháo. Khi nào bản ngã ấy xả lạc và xả khổ, diệt trừ hỷ và ưu về trước, đạt đến và an trú vào đệ tứ thiền. Thiền này không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như thế, bản ngã ấy đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn”. Như vậy có người chủ trương tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài hữu tình.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận, chấp trước sự tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài hữu tình với năm luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận, chấp sự tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài hữu tình, những vị này sẽ chấp cả năm luận chấp trên, hay một trong năm luận chấp trên, ngoài ra không còn một luận chấp nào khác nữa...
...Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào, luận bàn về quá khứ tối sơ, hay luận bàn về tương lai, hay luận bàn về quá khứ tối sơ và tương lai, chấp kiến về quá khứ tối sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác, tất cả những vị này đều bị bao phủ trong lưới của sáu mươi hai luận chấp này; dầu có nhảy vọt lên, những vị này vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây.” (4)
.
--- Tâm trụ không loạn, không động, chánh định, nhất tâm vẫn có thể chỉ là thế tục
Trong Tạp A Hàm, Kinh SA 785, ngay cả đắc chánh định có khi chỉ là pháp thế tục. Ngay cả khi đạt chánh định tới chỗ “Tâm trụ không loạn, không động, nhiếp thọ, tĩnh chỉ, chánh định, nhất tâm” cũng có thể chỉ là thiện pháp thế gian, chưa thể giải thoát. Pháp chánh định bậc thánh là tư duy Tứ Diệu Đế (tư duy Khổ, Tập, Diệt, Đạo), không thủ trước, để chuyển hướng thoát khổ. Bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng, trích:
“Thế nào là chánh định? Chánh định có hai: Có chánh định thuộc thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện; có chánh định thuộc xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.
“Thế nào là chánh định thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến đường lành? Tâm trụ không loạn, không động, nhiếp thọ, tĩnh chỉ, chánh định, nhất tâm. Đó gọi là chánh định thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến đường lành.
“Thế nào là chánh định thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi Khổ tư duy Khổ; nơi Tập, Diệt, Đạo tư duy Đạo; tâm pháp tương ưng với tư duy vô lậu, an trụ không loạn không tán, nhiếp thọ, tĩnh chỉ, chánh định, nhất tâm. Đó gọi là chánh định thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.” (5)
.
--- Có thể từ sơ thiền, quán vô thường để giải thoát
Trong Kinh AN 9.36, bản dịch của Thầy Minh Châu, có lời Đức Phật dạy rằng có trường hợp chỉ cần an trú sơ thiền là đủ để giải thoát. Kinh này nói rằng khi vào sơ thiền, quán các pháp ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là vô thường, khổ, rỗng không, vô ngã, đoạn diệt tham ái, vào Niết Bàn. Tức là, tu thiền chỉ, rồi tới thiền quán. Tức là, có định trước, rồi tới huệ. Trường hợp chưa được, thì cũng được hóa sanh (hiểu là vào cõi tịnh độ của thánh quả Bất Lai) và nơi cõi trời này sẽ chứng Niết Bàn. Kinh AN 9.36 trích như sau:
“Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng: “Y chỉ vào sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận”, như vậy được nói đến. Do duyên gì, được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục… chứng và trú sơ Thiền. Vị ấy, ở đây đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: “Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn”. Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc, nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.” (6)
.
--- Từ chánh định có 11 cửa bất tử, với sơ thiền là một cửa bất tử
Trong Kinh AN 11.16, ngài Ananda được gia chủ Dasama vấn pháp. Câu hỏi là có một pháp nào để giải thoát tâm chưa được giải thoát, để đoạn tận lậu hoặc, và vào Niết Bàn. Ngài Ananda trả lời rằng chỉ cần vào sơ thiền, quán vô thường, đoạn tận lậu hoặc, là nhập Niết Bàn. Tức là, tu thiền chỉ, rồi tới thiền quán. Tức là, có định trước, rồi tới huệ. Nếu chưa vào Niết Bàn được, có thể hóa sanh (tức là, đắc quả Bất Lai) rồi từ cõi này nhập Niết Bàn. Như thế là đủ. Hoặc trường hợp, tương tự, với nhị thiền, với tam thiền, với tứ thiền. Hoặc là, tuần tự với Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) rồi ly tham sân si để vào Niết Bàn. Hoặc là, tuần tự với các định vô sắc để vào Niết Bàn. Khi nghe dạy như thế, tức là có 11 cửa để vào, trong đó, cửa đơn giản nhất là từ sơ thiền.
Sau khi nghe ngài Ananda nói đầy đủ 11 cửa bất tử, gia chủ Dasama mới thưa, hỏi một cửa vào bất tử, lại được dạy tới mười một cửa bất tử: “Thưa Tôn giả Ananda, ví như một người tìm một cái cửa vào chỗ chôn cất, trong một lúc, tìm ra được mười một cái cửa. Cũng vậy, thưa Tôn giả, trong khi đi tìm một cửa bất tử, trong một lúc, con tìm ra mười một cái cửa bất tử. Ví như, thưa Tôn giả, trong một ngôi nhà chỉ có một cái cửa, và nhà ấy bị cháy, người ấy chỉ có thể ra bằng một cửa để có thể được an toàn cho mình. Cũng vậy, thưa Tôn giả, với mười một cửa bất tử này, con có thể tạo được sự an toàn cho con với chỉ một cửa bất tử.” (7)
Bản dịch của Thầy Minh Châu, trong kinh AN 11.16, nơi vấn đáp về từ sơ thiền vào Niết Bàn như sau:
“— Nhưng thưa Tôn giả Ananda, một pháp ấy là gì, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được?
--- Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy quán sát như sau: “Thiền thứ nhất này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm”. Phàm cái gì thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri: “Cái gì là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui thế giới ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác… vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.” (7)
Tương tự, trong Kinh MN 52, Đức Phật nói rõ rằng có thể từ sơ thiền, quán vô thường để trừ lậu hoặc. Nếu chưa trừ sạch, sẽ vào hóa sanh (đắc quả A na hàm, hay Bất Lai) từ đây nhập Niết Bàn. Bản dịch Kinh MN 52 của Thầy Minh Châu, trích lời dạy của ngài Ananda:
“Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy suy tư và được biết: “Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.” (7)
.
--- Từ sơ thiền, quán sát pháp ấn (vô thường, khổ, không, vô ngã) rồi vào Niết Bàn
Đức Phật dạy trong Kinh MN 64, rằng học nhân có thể nhờ giữ giới, ly tham dục, ly bất thiện pháp và vào được sơ thiền. Từ sơ thiền quán sát vô thường, quán khổ như bệnh, như cục bướu, như mũi tên bắn trúng, như bệnh rồi quán không, quán vô ngã. Khi tâm không còn bị ràng buộc bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì hướng tâm về bất tử giới (tức Niết Bàn), rồi nhập Niết Bàn. Tức là, tu thiền chỉ, rồi tới thiền quán. Tức là, có định trước, rồi tới huệ. Kinh MN 64, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:
“Ở đây, này Ānanda, Tỷ-kheo do viễn ly các sanh y (Upadhiviveka), do đoạn trừ các bất thiện pháp, do làm cho an tịnh thân thô ác hành một cách toàn diện, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới (Amatadhatu) và nghĩ rằng: “Đây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn”. Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, thời do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa.” (8)
.
--- Từ sơ thiền, quán sát thọ, nhận ra vô thường, vào Niết Bàn
Trong Trung A Hàm, Kinh MA 205, Đức Phật dạy rằng có thể vào tứ thiền bát định, từ đó quán thọ, nhận ra vô thường, đắc lậu tận và vào Niết Bàn. Nhưng Đức Phật nói rõ rằng, không cần phải đi hết chặng đường của định, mà ngay từ sơ thiền là có thể quán thọ, nhận ra vô thường, đắc lậu tận và vào Niết Bàn. Không cần mất thêm thì giờ vào nhị thiền, vân vân. Tức là, tu thiền chỉ, vào sơ thiền, rồi tới thiền quán. Tức là, có định trước, rồi tới huệ. Kinh MA 205 bàn dịch Thầy Tuệ Sỹ, trích:
“Người ấy bèn ở bên này thu lượm cỏ cây buộc lại làm thành chiếc bè, rồi bình an bơi sang bờ bên kia. Cũng vậy, này A-nan, Tỳ-kheo phan duyên vào sự yểm ly, y trên sự yểm ly, an trụ nơi yểm ly, do làm an tịnh thân ác, do tâm nhập ly định, ly dục, ly ác bất thiện pháp, có tầm có tứ, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền thành tựu an trụ. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trụ nơi đó, tất chứng đắc lậu tận.” (9)
.
--- Ly dục, ly bất thiện, đắc sơ thiền, ngộ pháp ấn, vào Niết Bàn
Kinh SA 864 có nhan đề là Sơ Thiền. Kinh này thuần nói về sơ thiền, từ đây quán các pháp ấn (khổ, vô thường, không, vô ngã), đoạn tận ái dục, vào Niết Bàn. Tức là, tu thiền chỉ, rồi tới thiền quán. Tức là, có định trước, rồi tới huệ. Ngộ các pháp ấn còn hiểu là quán Tứ Thánh Đế, tức là nhìn thấy 4 sự thực của pháp. Kinh SA 864 không nói tới các tầng thiền khác, nghĩa là Đức Phật có ý nói tới sơ thiền là đủ để quán pháp ấn, đoạn tận lậu hoặc là vào Niết Bàn. Trong nhiều kinh đã nói, cách vào sơ thiền có thể là bằng cách: ly dục, ly bất thiện pháp, giữ hạnh viễn ly – nghĩa là chủ yếu bằng giới. Toàn văn Kinh SA 864, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng như sau:
“KINH 864. SƠ THIỀN
Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Nếu Tỳ-kheo, với hành, hoặc hình, hay tướng, ly dục, ly pháp ác bất thiện, có giác, có quán có hỷ lạc do viễn ly sanh, chứng và an trụ Sơ thiền; vị ấy không nhớ nghĩ hành như vậy, hình như vậy, tướng như vậy. Nhưng đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vị ấy tư duy như là bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại, là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với những pháp này mà sanh tâm nhàm chán, sợ hãi, phòng hộ. Do nhàm chán, xa lìa, phòng hộ, bằng cửa cam lộ mà tự làm lợi ích cho mình. Đây là tịch tĩnh, đây là thắng diệu, tức là xả ly tất cả hữu dư, ái tận, vô dục, diệt tận, Niết-bàn.” Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.” (10)
--- Thế nào để biết là đã vào sơ thiền?
Có cách nào để biết là đã vào được sơ thiền? Đức Phật nói trong nhiều kinh rằng, vào sơ thiền (và các tầng thiền khác) sẽ thấy an lạc vô cùng tận. Trong sơ thiền, niềm vui hỷ lạc tràn ngập toàn thân y hệt như người tắm và xoa bột tắm trên toàn thân. Chỗ này nên ghi nhận rằng, không nhất thiết phải ngồi mới vào được sơ thiền. Trong nhiều kinh thường nói là ly dục, ly bất thiện pháp, tâm giữ hạnh viễn ly, sẽ tới một lúc vào sơ thiền. Trạng thái sơ thiền cảm nhận trên cơ thể được Đức Phật giải thích trong Kinh AN 5.28 như sau, qua bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục... chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Ví như, này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho dung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần." (11)
Trong đoạn kinh vừa dẫn có chữ “tầm” và “tứ” – tầm là niệm hướng vào, niệm hướng về; tứ là niệm dán vào, niệm trụ vào. Thí dụ, như khi niệm hơi thở: tầm là hướng tâm theo hơi thở vào, theo hơi thở ra; tứ là dán tâm vào hơi thở, không để tâm nghĩ tới chuyện khác, không để chệch ra khỏi hơi thở. Sơ thiền cũng có thể đạt trong khi đi kinh hành, đi bộ.
.
--- Cần ly tham để vào sơ thiền
Trong các kinh dẫn trên, hầu hết nói rằng ly dục, ly bất thiện pháp, giữ hạnh viễn ly sẽ dẫn tới sơ thiền và cao hơn. Trong Kinh AN 5.256, Đức Phật nói rằng điều kiện chứng đạt và an trú sơ thiền là phài đoạn tận tâm tham. Bản dịch của Thầy Minh Châu viết như sau:
“Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Thế nào là năm? Xan tham trú xứ, xan tham gia đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp. Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Do đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Thế nào là năm? Xan tham trú xứ, xan tham gia đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp. Do đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền.” (12)
.
--- Cần có giới mới giải thoát
Nhiều Kinh ghi lời Đức Phật dạy rằng phải có giới, mới có thể giải thoát. Đặc biệt, một số kinh nói rằng giữ giới nghiêm nhặt, tất nhiên sẽ giải thoát, không cần khởi tâm ước muốn gì nữa. Trong Kinh MA 43, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ, nói về năng lực trì giới dẫn tới giải thoát như sau:
“Này A-nan, đấy là nhân trì giới mà được không hối hận, nhân không hối hận mà được hân hoan, nhân hân hoan mà được hỷ, nhân hỷ mà được chỉ, nhân chỉ mà được lạc, nhân lạc mà được định. Này A-nan, Đa văn Thánh đệ tử nhân định mà có tri kiến như thật, nhân có tri kiến như thật mà có yếm ly, nhân có yếm ly mà được vô dục, nhân vô dục mà được giải thoát, nhân giải thoát mà có giải thoát tri kiến, biết đúng như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Này A-nan, đó chính là các pháp hỗ trợ lẫn nhau, làm nhân cho nhau. Như vậy, giới này đưa đến chỗ cao tột, tức là đưa từ bờ này đến tận bờ kia.” (13)
Trong Tăng Chi Bộ, một nhóm Kinh nói về năng lực giới sẽ tự động dẫn tới giải thoát là từ Kinh AN 10.1 tới Kinh AN 10.5. Phần tiếng Anh ghi tóm lược về nhóm kinh này là:
Kinh AN 10.1 (The purpose of ethics, leading step by step to liberation.). AN 10.2 (There’s no need to make a wish to get enlightened; it happens naturally when the conditions are there.). AN 10.3 (The Buddha teaches how, like a tree that grows due to its leaves, liberation follows when ethics is present.) Kinh AN 10.4 (Sāriputta teaches how, like a tree that grows due to its leaves, liberation follows when ethics is present.). Kinh AN 10.5 (Ānanda teaches how, like a tree that grows due to its leaves, liberation follows when ethics is present.)
Dịch là: Kinh AN 10.1 (Mục đích của giới, dẫn từng bước tới giải thoát.) Kinh AN 10.2 (Không cần khởi tâm ước muốn giải thoát; giải thoát xảy ra tự nhiên khi các duyên sẵn đủ.) Kinh AN 10.3 (Đức Phật dạy về cách, y hệt một cây mọc lá, khi giới có mặt thì giải thoát theo sau.) Kinh AN 10.4 (Ngài Xá Lợi Phất dạy về cách, y hệt một cây mọc lá, khi giới có mặt thì giải thoát theo sau.). Kinh AN 10.5 (Ngài Ananda dạy về cách, y hệt một cây mọc lá, khi giới có mặt thì giải thoát theo sau.) (13)
.
--- Đi đứng nằm ngồi vẫn trong định
Trong khi chúng ta chỉ cần sơ thiền, hay chỉ cần ở mức cận định, Đức Phật cho biết rằng các tư thế đi đứng nằm ngồi không ảnh hưởng gì khi tâm đã vào định (nhiều luận sư giải thích khác nhau, nhưng không nên là chỗ bận tâm cho người tu). Trong Kinh AN 3.63, Đức Phật kể:
“Ở tại đấy, Ta lượm cỏ hay lá chất thành một đống, rồi ta ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, ly dục, ly pháp bất thiện, Ta chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Làm cho chỉ tịnh tầm và tứ, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Đoạn lạc và đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành, thời trong lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đứng, thời trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta thuộc chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta ngồi, thời trong lúc ấy, chỗ ngồi của ta thuộc Chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta nằm, thời trong lúc ấy giường cao và giường lớn của Ta thuộc chư Thiên.” (14)
Một điển hình là trường hợp ngài Bhagu (Trưởng Lão Tăng Kệ Thag 4.2) đắc quả giải thoát ngay khi đang đi kinh hành. Do vậy, định nên tu tập trong mọi trường hợp, không nhất thiết là ngồi. Trong nhiều Kinh (như AN 3.63, EA 21.6), Đức Phật khuyến tấn phải chú tâm cảnh giác cả khi kinh hành (đi bộ) và cả khi nằm. Trong Kinh AN 3.16 Đức Phật nói lời khuyên như sau:
“Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo chú tâm cảnh giác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ban ngày trong khi đi kinh hành và ngồi, gột sạch tâm khỏi các triền cái, ban đêm trong canh một, trong khi đi kinh hành và ngồi, gột sạch tâm khỏi các triền cái, ban đêm trong canh giữa, nằm xuống như con sư tử về phía hông bên phải, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ý tưởng thức dậy, ban đêm trong canh cuối, sau khi thức dậy trong khi đi kinh hành và ngồi, gột sạch tâm khỏi các triền cái. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chú tâm cảnh giác.” (14)
.
--- Trong chỉ nên có quán, và ngược lại
Nên ghi nhận rằng trong nhiều kinh ghi trên, khi nói rằng tập định (chỉ) thực ra đã hàm ý phải có sẵn huệ (quán). Như trường hợp vào sơ thiền, tức là ở mức định tâm này, nếu không có “tầm” (hướng tâm tới, thí dụ, như tới hơi thở, hay tới tâm từ) và nếu không có “tứ” (dán tâm vào, để khỏi chệch sang mục tiêu khác) thì sẽ không an trụ sơ thiền được. Tầm và tứ cũng là chức năng của quán. Nếu chỉ ngừng ở định, sẽ không giải thoát được. Tận cùng phải là quán các pháp ấn, tức là chú trọng vào tuệ quán vô thường, vô ngã. Tuy rằng định và huệ nên tu tập hàng ngày để tăng thượng tâm, mỗi ngày mỗi đi thêm một bước, nhưng không nên chấp các phẩm chất này là cái gì ở ngoài tâm để mài giũa, vì tất cả những gì mài giũa đều là hữu lậu, hữu vi, có sinh thì sẽ diệt. Cũng không nên chấp là ở trong tâm, vì bản tâm vốn là Không, là ly ngôn thuyết. Chức năng đoạn tận lậu hoặc (để giải thoát), là pháp vô vi. Không gọi là có sẵn (do tự nhiên) cũng không gọi là mài giũa (do nhân duyên). Nơi đây, chúng ta chỉ chú tâm vào tính thực dụng, sẽ không bận tâm về lý luận. Trong Thiền Tông Trung Hoa thường nhắc là định huệ phải song song, quân bình: “Lặng lặng, tỉnh tỉnh; tỉnh tỉnh, lặng lặng.”
Trong Kinh AN 4.170, ngài Ananda nói rằng các vị A La Hán hoặc là đạt đủ 4 chi phần, hoặc là một trong 4 chi phần sau, trích bản dịch của Thầy Minh Châu:
. hoặc chỉ trước, rồi quán sau, rồi con đường được sanh khởi;
. hoặc quán trước, rồi chỉ sau, rồi con đường được sanh khởi;
. hoặc tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, rồi con đường được sanh khởi;
. hoặc "Tỷ-kheo với các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi." (Bản dịch Thanissaro: Then there is the case where a monk’s mind has its restlessness concerning the Dhamma [Comm: the corruptions of insight] well under control. There comes a time when his mind grows steady inwardly, settles down, and becomes unified & concentrated. In him the path is born.) Như thế, Luận Thư nói trường hợp thứ 4 này là tuệ quán hỗn loạn, rồi tới lúc lắng xuống. (15)
Như thế, chúng ta có thể thử tập cả chỉ và quán, rồi ngay cả khi tán tâm cũng chớ lo sợ, cứ kiên nhẫn, sẽ tới lúc tự nghiệm ra cách thích hợp cho mình. Thế nào là biết tu đúng? Đó là khi tham sân si mỏng dần đi từng ngày.