Đức Phật dạy: hoặc là tu Tứ niệm xứ, hoặc là tu Thiền vô tướngĐức Phật dạy trong nhiều kinh về Thiền vô tướng. Trong Kinh SN 22.80, Đức Phật dạy chư Tăng ni rằng hoặc là tu Tứ niệm xứ, hoặc là tu Thiền vô tướng đều sẽ đoạn diệt không có dư tàn. Điểm đặc biệt của Kinh SN 22.80 là, trước khi dạy Thiền vô tướng, Đức Phật thị hiện thần thông để từng nhóm Tỳ kheo tới gặp Đức Phật với tâm có tội lỗi để tìm lời dạy. Kinh SN 22.80, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích như sau:
“Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến vườn Cây Bàng, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nghĩ rằng: “Ta hãy thị hiện thần thông một cách khiến cho các vị Tỷ-kheo ấy đến Ta từng nhóm một hay hai người, với tâm có tội lỗi”.
Và các Tỷ-kheo ấy đến Thế Tôn, từng nhóm một hay hai người, với tâm có tội lỗi; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên...
...
Này các Tỷ-kheo, có ba bất thiện tầm này: dục tầm, sân tầm, hại tầm. Và này các Tỷ-kheo, ba bất thiện tầm này được đoạn diệt không có dư tàn, đối với vị nào tâm đã
khéo an trú vào bốn Niệm xứ HAY tu tập vô tướng Thiền định.
Này các Tỷ-kheo, hãy khéo tu tập vô tướng Thiền định. Này các Tỷ-kheo, vô tướng Thiền định được tu tập, làm cho tăng thịnh, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn.” (14)
Nghĩa là, có 2 chiếc ghe tương đương có thể chở học nhân qua bờ bên kia, hoặc là lên ghe Tứ niệm xứ, hoặc là lên ghe Thiền vô tướng. Và thậm chí, cũng có thể đi cả 2 ghe để có thể linh động hướng dẫn tứ chúng. Do vậy, chúng ta thấy rằng sẽ là sai lầm khi nói Tứ niệm xứ là con đường độc nhất. Đúng ra, phải nói, Bát chánh đạo là con đường độc nhất, bởi vì Chánh niệm chỉ là chi thứ 7 trong Bát chánh đạo.
Xin chú ý tới văn phạm trong các bản dịch tiếng Anh cũng nói minh bạch về lựa chọn tương đương giữa Tứ niệm xứ và Thiền vô tướng.
Bản dịch Kinh SN 22.80 của Thầy Sujato là: “And where do these three unskillful thoughts cease without anything left over? In those who meditate with their mind firmly established in the four kinds of mindfulness meditation;
or who develop signless immersion.”
Bản dịch của Thầy Thanissaro: “These three types of unskillful thinking cease without remainder in one who dwells with his mind well established in the four frames of reference
or who develops the themeless concentration.”
Bản dịch của Giáo sư Maurice O'Connell Walshe: “And these three unskilled states disappear utterly in him whose heart is well established in the four foundations of mindfulness,
or who practices concentration on the signless.”
.
Bên Tạng A Hàm, tương đương là Kinh SA 272, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng, trích: “Này các Tỳ-kheo, tham tưởng, nhuế tưởng, hại tưởng; tham giác, nhuế giác, hại giác và vô lượng thứ bất thiện, làm sao để diệt sạch rốt ráo?
Hãy buộc tâm vào bốn Niệm xứ, hãy an trụ nơi vô tưởng tam-muội, tu tập, tu tập nhiều; pháp ác bất thiện từ đây diệt hết, dứt sạch không còn sót, là chính nhờ ở pháp này.” (14)
Tới đây, câu hỏi là, định nghĩa Vô tướng (Signless, hay Themeless) là gì?
Trong luận thư The Path of Purification (Thanh Tịnh Đạo), bản Anh văn của Thầy Ñanamoli, ấn bản Colombo năm 1956, nơi trang 564, viết: “Signless, being secluded from the sign of the five aggregates, taken as having no graspable entity (aviggaha).” (Dịch: Vô tướng là xa lìa các tướng của năm uẩn, thấy là không có bất kỳ một cái gì để nắm giữ.”
.
Khi Đức Phật bệnh nặng, đã dùng Thiền vô tướng để thân thoải máiTrong Kinh SN 47.9, Đức Phật kể rằng, bấy giờ bệnh trầm trọng khởi lên, những cảm thọ khốc liệt gần như chết tiếp diễn, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:
“Này Ānanda, Ta nay đã già, bậc trưởng thượng, bậc trưởng lão, đã đạt đến đoạn cuối của đời, đã đến tám mươi tuổi. Này Ānanda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờ dây thừng chằng chịt. Cũng vậy, thân Như Lai được duy trì sự sống giống như chính nhờ dây thừng chằng chịt. Này Ānanda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng và
an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy, thân Như Lai được thoải mái.” (15)
Thiền vô tướng: không chú tâm vào bất cứ tướng nàoKinh SN 47.9 cho thấy Đức Phật “không tác ý tất cả tướng” (Kinh Kim Cang: ly nhất thiết tướng) và nơi đây cảm thọ được đoạn tận (nơi đây, thọ biến mất).
Bản tiếng Anh của Thầy Sujato viết: “…not focusing on any signs, and with the cessation of certain feelings, enters and remains in the signless immersion of the heart. Only then does the Realized One’s body become more comfortable.” (Dịch: … không chú tâm vào bất kỳ tướng nào, và với tịch diệt một số cảm thọ, Như Lai vào và an trú trong vô tướng tâm định. Chỉ khi đó, thân của Như Lai mới thoải mái hơn.)
Bản tiếng Anh của Thầy Bodhi viết: “…Whenever, Ānanda, by nonattention to all signs and by the cessation of certain feelings, the Tathagata enters and dwells in the signless concentration of mind, on that occasion, Ānanda, the body of the Tathagata is more comfortable.” (Dịch: A Nan, bất cứ khi nào, bằng cách không chú tâm vào tất cả các tướng và tịch diệt một số cảm thọ, Như Lai vào và an trú trong vô tướng tâm định, khi đó, thân của Như Lai mới thoải mái hơn.)
.
Để nói ngắn gọn theo Thiền Tông, có thể gọi Thiền vô tướng như các đoạn trên là “vô tâm” hay “vô niệm” -- nhưng nếu phân tích chi tiết, thì nơi đây là Đức Phật dạy đoạn tận hành và đoạn tận thức (không nên hiểu là xóa sổ hành và thức, chỉ nên hiểu là khi tất cả đều đã “ly nhất thiết tướng” thì sẽ không thấy gì gọi là hành hay thức nữa):
--
Đoạn tận hành (cessation of volitional formations, cessation of choices). Hành là tác ý, là lựa chọn, là ý muốn, ý nguyện. Kinh snp3.12 (trong Kinh Tập), theo bản dịch Sụjato: ‘All the suffering that originates is caused by choices’: this is one contemplation. ‘With the utter cessation of choices there is no origination of suffering’: this is the second contemplation. When a mendicant meditates in this way they can expect enlightenment or non-return.” (Dịch: Tất cả khổ sinh khởi từ hành: đây là một điều quán niệm. Khi hành tịch diệt hoàn toàn, sẽ không có khổ sinh khởi: đây là quán niệm thứ nhì. Khi tỳ kheo thiền tập trong cách này, họ sẽ giải thoát hoàn toàn, hay [nếu bất toàn] cũng sẽ chứng quả Bất Lai.) (16)
--
Đoạn tận thức (cessation of consciousness). Trong Kinh SN 22.57, bản dịch Thầy Minh Châu, trích: “Do duyên thức khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của thức. Thức vô thường, khổ, vô ngã, đây là nguy hiểm của thức. Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với thức, đây là sự xuất ly của thức... Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thức là như vậy, thắng tri thức tập khởi là như vậy, thắng tri thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của thức là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của thức là như vậy, thắng tri sự xuất ly của thức là như vậy; do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thức, họ giải thoát, không chấp thủ. Họ được khéo giải thoát.” (17)
.
Đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên an trú Thiền vô tướngMột điểm để suy nghĩ: Hai đệ tử lớn của Đức Phật là Xá Lợi Phất (Sariputta), đệ nhất về trí tuệ, và Mục Kiền Liên (Moggallāna), đệ nhất về thần thông, đều liên hệ hầu hết tới các kinh về Thiền vô tướng. Bài Bát Nhã Tâm Kinh với ngài Xá Lợi Phất (Xá Lợi Tử) là vị đương cơ là một điển hình của Thiền vô tướng trong Phật Giáo Tây Tạng và Bắc Tông. Tạng Pali cũng ghi lại rằng cả hai vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều từng trực tiếp hoằng pháp Thiền vô tướng.
Nơi đây, chúng ta trích Kinh SN 40.9, ngài Mục Kiền Liên kể lại, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:
“…“Vô tướng tâm định, Vô tướng tâm định” (animitto cete samādhi), như vậy được nói đến. Thế nào là Vô tướng tâm định?
Và này chư Hiền, tôi suy nghĩ như sau: “Ở đây, Tỷ-kheo không tác ý tất cả tướng, chứng và trú Vô tướng tâm định”. Đây gọi là Vô tướng tâm định.
Rồi này chư Hiền, tôi không tác ý tất cả tướng, chứng và an trú Vô tướng tâm định. Này chư Hiền, do tôi trú với an trú này, (tôi đạt được) thức tùy thuận tướng (nimittànusarivinnànam).
Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với thần thông đi đến tôi và nói như sau: “Này Moggallāna, này Moggallāna, chớ có phóng dật Vô tướng tâm định! Này Moggallāna, hãy đặt tâm vào Vô tướng tâm định! Hãy nhứt tâm vào Vô tướng tâm định! Hãy định tâm vào Vô tướng tâm định!”
Rồi này chư Hiền, sau một thời gian, tôi không tác ý tất cả tướng, chứng và trú Vô tướng tâm định.
Này chư Hiền, nếu ai có nói một cách chơn chánh: “Vị đệ tử được bậc Đạo Sư hỗ trợ, chứng và đạt thắng trí”. Người ấy sẽ nói về tôi như sau: “Moggallāna là người đệ tử được bậc Đạo Sư hỗ trợ, chứng và đạt thắng trí”…” (18)
.
Tôn giả Xá Lợi Phất dạy Thiền vô tướngTrong Kinh MN 43, ngài Xá Lợi Phất dạy cho ngài Mahā Kotthita rằng Thiền vô tướng là tận gốc lìa tham sân si vì tham sân si luôn luôn có tướng, theo bản dịch Thầy Minh Châu:
“Và này Hiền giả, thế nào là không tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau: “Đây trống không, không có tự ngã hay không có ngã sở”. Như vậy, này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô tướng tâm giải thoát. Như vậy là có pháp môn và do pháp môn này những pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt...
... Tham, này Hiền giả, là nhân tạo ra tướng, sân là nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng. Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này được chặt tận gốc, như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có tham, không có sân, không có si.” (19)
.
Ngài Xá Lợi Phất dạy Cấp Cô Độc đang hấp hối: không để thức y cứ vào đâuTóm tắt, Thiền vô tướng chính là thấy thường trực Lý Duyên Khởi rằng cái này có thì cái kia có, rằng cái này diệt thì cái kia diệt. Nhân duyên vào đạo của ngài Xá Lợi Phất là gặp ngài Assaji (một trong 5 đệ tử đầu tiên của Đức Phật và là trong nhóm 61 vị A la hán đầu tiên được Đức Phật yêu cầu đi các nơi để hoằng pháp), và được ngài Assaji dạy Lý Duyên Khởi: “Các pháp nhân duyên sinh, cũng theo nhân duyên diệt.” Khi nghe như thế, ngài Xá Lợi Phất chứng sơ quả Tu Đà Hoàn, tức là quả Dự lưu. Khi hiểu, các pháp do duyên sinh, tức khắc là thấy cốt tủy các pháp là không, tức khắc là tâm xa lìa tướng của năm uẩn, tức khắc là thấy không có “tôi” cũng không có “người” cũng không thấy bất kỳ tướng nào trước mắt hay trong tâm. (Kinh Kim Cang: Lìa tất cả các tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức gọi là chư Phật... Thử nhân vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng... Ly nhất thiết chư tướng tức danh chư Phật.) Làm thế nào ly nhất thiết tướng? Đức Phật dạy là “không tác ý tất cả tướng.” Nói cách khác: không để thức dựa vào bất kỳ tướng nào hết.
Nơi đây, chúng ta dẫn ra Kinh MN 143, khi Cư sĩ Cấp Cô Độc hấp hối, đau đớn, cung thỉnh ngài Xá Lợi Phất và ngài Ananda tới, nói với 2 vị thầy về sự đau đớn cư sĩ đang chịu đựng, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:
“... Thưa Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sāriputta, ví như hai người lực sĩ, sau khi nắm cánh tay của một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân con….”
Bấy giớ, ngài Xá Lợi Phất mới dạy ngài Cấp Cô Độc:
“… Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ thế giới ở đây và tôi sẽ không có thức y cứ vào thế giới ở đây”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy … “Tôi sẽ không chấp thủ thế giới khác, và tôi sẽ không có thức y cứ vào thế giới khác”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ, được nhận thức, được hy cầu, được tư sát với ý, và tôi sẽ không có thức y cứ vào các pháp (nói trên)”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.” (20)
Giây lát sau, Cư sĩ Cấp Cô Độc từ trần, sinh lên cõi trời Đâu Suất (Tusita). Kinh này nên đối chiếu với Kinh SN 47.29 và Kinh SN 47.29, khi hai cư sĩ nằm bệnh được khuyên là hãy quán sát Tứ niệm xứ.
.
Bố thí với tâm vô cầu, sẽ sinh thiên, rồi đắc quả Bất LaiGiữ được tâm vô tướng sẽ có oai lực vô cùng tận. Đức Phật trong Kinh AN 7.52 dạy cho ngài Xá Lợi Phất rằng bố thí với tâm không cầu, không trụ, không mong muốn gì, cũng không nghĩ là để tâm được tịnh tín, mà chỉ để trang nghiêm tâm… thì sẽ được sinh thiên rồi đắc quả Bất Lai. Bản dịch của Thầy Minh Châu trích như sau:
“—Này Sàriputta, ở đây, ai bố thí không với tâm cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau”, bố thí không với ý nghĩ: “Lành thay, sự bố thí”, bố thí không với ý nghĩ: “Cái này đã được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên”, bố thí không với ý nghĩ: “Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không xứng đáng là người nấu ăn, lại không bố thí cho người không nấu ăn”, bố thí không với ý nghĩ: “Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí này”, bố thí không với ý nghĩ: “Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên”. Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.” (21)
.
Ly nhất thiết tướng: Kinh BahiyaĐức Phật dạy rằng phải lìa tất cả các tướng. Nghĩa là trong cái được thấy, trong cái được nghe… không hề có tướng nào gọi là A hay B, không hề có cái gì gọi là tướng nhân hay tướng ngã, không hề có bất kỳ tướng nào hết… mà chỉ là những cái được thấy và những cái được nghe liên tục chảy xiết qua tâm gương sáng. Thấy như thế là giải thoát. Đó là thấy được tánh Như: Thiền Tông so sánh tương tự như gương sáng không hề lưu ảnh, vì Hồ tới hiện Hồ, Hán tới hiện Hán. Liên tục giữ tâm vô tướng như thế là giải thoát. Đức Phật dạy ngài Bahiya cách nhìn này:
“Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.” (22)
.
Thiền vô tướng nhìn từ đời sauTới đây, chúng ta có thể gợi nhớ rằng, trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Thiền Tông, nơi "Phẩm thứ tư: Định Huệ" Lục Tổ Huệ Năng (638-713) đã dạy, theo bản dịch của Thầy Thích Thanh Từ, trích:
“Này Thiện tri thức, pháp môn của ta đây từ trước đến nay, trước lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm bản. Vô tướng là đối với tướng mà lìa tướng; vô niệm là đối với niệm mà không niệm; vô trụ là Bản tánh của người... Này Thiện tri thức, ngoài lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là Pháp thể thanh tịnh, đây là lấy vô tướng làm thể. Này Thiện tri thức, đối trên các cảnh tâm không nhiễm gọi là vô niệm. Đối trên niệm thường lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh tâm.” (23)
Tương tự, trong tác phẩm Gương Thiền (Thiền Gia Quy Giám), ngài Tây Sơn Đại Sư (1520-1604) giải thích, qua bản dịch của Thị Giới, trích:
“(44) Thấy cảnh tâm không khởi gọi là không sanh. Không sanh là vô niệm. Vô niệm là giải thoát.
Giới Định Tuệ nếu được một liền đủ cả ba, không phải riêng lẻ.
(45) Tu đạo mà có chỗ chứng thì không phải là chân thật. Tâm và pháp vốn rỗng lặng là tịch diệt chân thật (niết bàn chân thật). Do đó nói rằng: “Các pháp xưa nay vốn tướng tịch diệt.”…” (24)
Kết luậnCon đường độc nhất để giải thoát là Bát Chánh Đạo, chứ không phải bất kỳ một chi nào trong đó. Đức Phật cũng dạy nhiều pháp khác, ngoài những gì đã trình bày trên. Thí dụ, Kinh Metta Sutta (Kinh Từ Bi), một bài kinh có tầm quan trọng đặc biệt. Bài viết này chỉ nói lên một phần rất nhỏ trong giáo lý của Đức Phật, vì sức đọc của người viết không nhiều. Dù vậy, cũng hy vọng đã làm sáng tỏ về một số bất toàn, một số trở ngại… nếu có ai chỉ dùng Thiền pháp như một kỹ thuật mà không chú trọng tới giữ giới và các giáo lý căn bản.
Nguyên Giác
______________________
GHI CHÚ:(1) Mindfulness exercises, Mayo Clinic:
https://www.mayoclinic.o...s-exercises/art-20046356(2) Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?
https://thuvienhoasen.or...n-con-nguoi-xau-tinh-di-(3) Can Mindfulness Be Bad for Teens?
https://www.psychologyto...mindfulness-be-bad-teens(4) Kinh SN 47.46:
https://suttacentral.net/sn47.46/vi/minh_chau(5) Kinh SN 47.3:
https://suttacentral.net/sn47.3/vi/minh_chau(6) Kinh AN 5.24:
https://suttacentral.net/an5.24/vi/minh_chau(7) Kinh EA 17.8:
https://suttacentral.net/ea17.8/vi/tue_sy-thang(8) Chögyam Trungpa:
https://en.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B6gyam_Trungpa(9) Osho (tiếng Việt):
https://vi.wikipedia.org/wiki/OshoHiện Tượng Osho - Hoàng Liên Tâm:
https://thuvienhoasen.or...uong-osho-hoang-lien-tam(10) Kinh SN 47.29:
https://suttacentral.net/sn47.29/vi/minh_chau(11) Kinh SN 47.22:
https://suttacentral.net/sn47.22/vi/minh_chau(12) Kinh SN 47.20:
https://suttacentral.net/sn47.20/vi/minh_chau(13) Kinh SN 54.11:
https://suttacentral.net/sn54.11/vi/minh_chauKinh SN 54.4:
https://suttacentral.net/sn54.4/vi/minh_chau(14) Kinh SN 22.80:
https://suttacentral.net/sn22.80/vi/minh_chau(14) Kinh SA 272:
https://suttacentral.net/sa272/vi/tue_sy-thang(15) Kinh SN 47.9:
https://suttacentral.net/sn47.9/vi/minh_chau(16) Kinh snp 3.12:
https://suttacentral.net/snp3.12/en/sujato(17) Kinh SN 22.57:
https://suttacentral.net/sn22.57/vi/minh_chau(18) Kinh SN 40.9:
https://suttacentral.net/sn40.9/vi/minh_chau(19) Kinh MN 43:
https://suttacentral.net/mn43/vi/minh_chau(20) Kinh MN 143:
https://suttacentral.net/mn143/vi/minh_chau(21) Kinh AN 7.52:
https://suttacentral.net/an7.52/vi/minh_chau(22) Kinh Bahiya:
https://thuvienhoasen.or...ap-khan-cap-bahiya-sutta(23) Kinh Pháp Bảo Đàn:
https://thuvienhoasen.or...631/pham-thu-tu-dinh-tue(24) Gương Thiền:
https://thuvienhoasen.or...thien-thien-gia-quy-giam