logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 15/01/2025 lúc 09:11:46(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,273

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
 
Trong Thiền sử Việt Nam có ngài Vô Ngôn Thông (759–826). Ý nghĩa trong tên của ngài là sự thông hiểu không qua cầu nối ngôn ngữ. Ngài Vô Ngôn Thông là một vị Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820, ngài Vô Ngôn Thông qua Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ, nơi bây giờ thuộc Hà Nội, thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông. Vô Ngôn Thông mất năm 826, và phái thiền của sư kéo dài được 17 thế hệ.
Thiền sử kể rằng, một hôm, Vô Ngôn Thông  chợt hiểu đạo lý của Thiền Tông sau khi nghe Bách Trượng Hoài Hải nói rằng khi đất tâm nếu trống không, thì mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng. Vô Ngôn Thông trụ trì chùa Hoà An một thời gian, dạy Thiền Tông, trong hàng môn đệ có Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, một người về sau trở thành một Thiền sư nổi tiếng của Trung Hoa.
 
Thiền sư Vô Ngôn Thông sang Việt Nam, ngụ ở Chùa Kiến Sơ, trong mấy năm liền chỉ quay mặt vào vách, ngồi thiền. Vị sự trụ trì Chùa Kiến Sơ là Cảm Thành rất mực kính trọng ngài Vô Ngôn Thông. Khi sắp viên tịch, Vô Ngôn Thông gọi Cảm Thành tới và nói bài kệ, nội dung nói rằng tất cả các pháp đều từ tâm sinh ra, và khi tâm không có chỗ sinh thì pháp không còn chỗ trụ. Nội dung bài kệ có thể tóm tắt rằng, khi tâm không sinh thì là Niết Bàn hiện ra.
Hiển nhiên, ngài Vô Ngôn Thông vẫn còn phải dựa vào ngôn ngữ. Ngài nghe Bách Trượng Hoài Hải nói rằng khi đất tâm nếu trống không, thì mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng. Khi sắp viên tịch, ngài Vô Ngôn Thông nói với Cảm Thành rằng khi tâm không sinh thì là Niết Bàn hiện ra. Như thế, vấn đề không phải là không dùng ngôn ngữ.
 
Thiền Tông xem ngôn ngữ như ngón tay chỉ vào mặt trăng, vì nếu không dùng ngón tay chỉ hướng, chúng ta không biết nhìn về đâu để thấy mặt trăng. Tuy nhiên, ngón tay không phải mặt trăng.
 
Do vậy, vô ngôn không có nghĩa là im lặng. Vì sự im lặng có khi chỉ là mặt ngoài của những ngộ nhận. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật nói trong Bài Kệ 268 rằng, những người im lặng nhưng ngu si thì không được gọi là ẩn sĩ.
 
Cũng trong Kinh Pháp Cú, khi Đức Phật nói lên các bài kệ 227, 228, 229, 230 là câu chuyện về cư sĩ Atula và 500 cư sĩ tới hỏi giáo pháp. Lúc đó, cư sĩ Atula và 500 cư sĩ tìm tới nhà sư Trưởng lão Revata để xin giảng pháp. Nhưng ngài Thera Revata đã im lặng, được mô tả là xa cách như một con sư tử.
 
Bấy giờ, nhóm Atula tới gặp Trưởng lão Sariputta và được giải thích cặn kẽ về Abhidhamma. Nhóm cư sĩ Atula thấy khó hiểu, nên tới gặp Trưởng lão Ananda, và được giải thích những điều cốt yếu của giáo pháp. Cư sĩ Atula và 500 cư sĩ lại cho rằng lời dạy của Ananda quá sơ sài. Bấy giờ, họ mới tìm gặp Đức Phật. Tới đây, câu hỏi của chúng ta là: tại sao sự im lặng của ngài Revata lại được Kinh Pháp Cú mô tả là thái độ của sư tử?
 
Có một thực tế mà chúng ta có thể kinh nghiệm là, sẽ rất khó cho một họa sĩ mô tả về dị biệt về màu sắc cho người mù. Nghĩa là, nếu chỉ thuần ngôn ngữ, mà không có biện biệt của cái thấy, chúng ta sẽ không vào được thế giới hội họa. Chuyện tu hành cũng như thế. Không thể dựa thuần túy bằng ngôn ngữ. Nghĩa là, phải có những trải nghiệm vượt ngoài ngôn ngữ.
 
Thiền sử ghi rằng, Thiền Tông là cửa giải thoát của phương pháp xa lìa khái niệm. Thiền Tông được truyền dạy đầu tiên là khi Đức Phật một lần thuyết pháp tại Linh Sơn. Khi chư Thiên dâng hoa, Đức Phật cầm đóa hoa lên, im lặng, và mỉm cười. Thiền sử kể rằng, ngài Ma Ha Ca Diếp lúc đó mỉm cười. Đức Phật lúc đó, nói rằng pháp môn Niết bàn diệu tâm vừa được Đức Phật truyền cho ngài Ma Ha Ca Diếp. Thiền Tông nói rằng pháp này không dùng ngôn ngữ, vì xa lìa tất cả các khái niệm. Một số sử gia nói rằng chuyện đó có lẽ là huyền thoại.
 
Nơi đây, chúng ta không bàn chuyện lịch sử Thiền Tông. Chúng ta cũng không thắc mắc xem có sách cổ nào ghi về sự tích đó, và sách đó lần đầu xuất hiện vào năm nào. Thực tế, kinh sách chỉ xuất hiện vài trăm năm sau Đức Phật. Chắc chắn rằng có rất nhiều chuyện về Đức Phật và chư tăng không được ghi đầy đủ. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong một cách khác.
 
Khi các Thiền sư nói rằng Thiền Tông là cửa pháp của những gì hiểu biết không qua khái niệm. Nghĩa là, cái biết trực tiếp. Trong Thiền sử thường nói rằng khi chúng ta uống nước, nước đó ấm hay nguội thì chỉ người uống biết, và không thể nào mô tả được. Nghĩa là, ngôn ngữ không ghi lại đúng những gì chúng ta kinh nghiệm. Tương tự, khi một họa sĩ dạy chúng ta về cách pha trộn màu để vẽ cảnh nắng chiều trên một góc phố, ngôn ngữ sẽ bất lực nếu người học không nhìn thấy trực tiếp cách người thầy thực hiện. Đó là cái biết trực tiếp, không qua ngôn ngữ. Khi chúng ta nhìn thấy tiến trình người họa sĩ vẽ, chúng ta không cần tới ngôn ngữ để hiểu nữa. Cái hiểu qua khái niệm hiển nhiên là bất toàn.
 
Tương tự, có một Kinh ghi lời Đức Phật dạy về chỗ vượt ngoài ngôn ngữ của những cái thấy, nghe, cảm thọ, nhận biết. Ngay sau khi nghe lời dạy này, ngài Bahiya tức khắc thoát khỏi ô nhiễm, xa lìa phiền não vì không còn nắm giữ gì nữa. Đây cũng là chỗ mà Thiền sư Vô Ngôn Thông nghe Bách Trượng Hoài Hải nói rằng khi đất tâm nếu trống không, thì mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng. Nghĩa là, không còn khái niệm trung gian nào nữa. Đây là cái biết trực tiếp, y hệt như tánh sáng rỗng không của gương tâm đã phản chiếu tất cả những gì tới và đi, một cách trực tiếp.
 
Đức Phật dạy Bahiya rằng: "Bāhiya, vậy thì ông nên tu tập như thế này: Đối với cái được thấy, chỉ có cái được thấy. Đối với cái được nghe, chỉ có cái được nghe. Đối với cái được cảm thọ, chỉ có cái được cảm thọ. Đối với cái được nhận thức, chỉ có cái được nhận thức. Đó là cách ông nên tu tập. Khi đối với ông, chỉ có cái được thấy đối với cái được thấy, chỉ có cái được nghe đối với cái được nghe, chỉ có cái được cảm thọ đối với cái được cảm thọ, chỉ có cái được nhận thức đối với cái được nhận thức, thì Bāhiya, không có ông liên quan đến điều đó. Khi không có ông liên quan đến điều đó, thì không có ông ở đó. Khi không có ông ở đó, thì ông không ở đây, cũng không ở trong đời sau, cũng không ở giữa hai cảnh giới đó. Thế này, chỉ thế này thôi, là sự chấm dứt của khổ đau."
 
Thế đó, chỉ như thế. Đó là cái biết xa lìa mọi ngôn ngữ, xa lìa mọi khái niệm, xa lìa mọi nhãn hiệu, xa lìa mọi chọn lựa, xa lìa mọi lý luận. Nơi đây là cái biết của một người tu theo lời Phật dạy, không Nam truyền hay Bắc truyền, chỉ thấy tâm mình như gương sáng và tất cả các cảnh hiện nơi gương tâm mà không lời nào để diễn giải. Tất cá hình ảnh hiện lên, sinh rồi diệt, trôi chảy xiết qua gương tâm. Nơi gương tâm, không gì được lưu giữ, không gì được biện biệt, không gì được mơ tưởng, và không còn chữ nào để tranh cãi nữa.
 
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, nơi Phẩm thứ bảy, Lục Tổ Huệ Năng từng dạy rằng: "Ta có một vật không đầu, không đuôi, không tên gọi, không danh tự, không lưng, không mặt, các ngươi có biết không?"
 
Đó chính là cái biết xa lìa mọi khái niệm. Nơi đây là giải thoát.

Nguyên Giác
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.053 giây.