Như mọi người đều biết, người ta càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rành rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Đặc biệt riêng về những người cựu quân nhân QLVNCH ở hải ngoại, nhất là những cựu tù nhân chính trị VNCH, trước kia đã bị cộng sản giam giữ cực hình, vô thời hạn trong các trại tù, ở những nơi rừng sâu nước độc, thì nay nhờ sự can thiệp trực tiêp của chính phủ Hoa Kỷ, qua chương trình nhân đạo HO (Human Operation), nên họ được sống trong một quốc gia dân chủ tự do thật sự và họ thường hồi tưởng lại thời chiên đâu oanh liệt của minh trước năm 1975 tại quê nhà mà họ đã phải từ giã Cha Mẹ già, vợ con thân yêu để lên đường nhập ngũ, cầm súng đánh đuổi quân thù cộng sản mưu đồ xâm chiếm Miền Nam Nước Việt và để bảo vệ an ninh hạnh phúc cho toàn dân đang sống thanh bình trong lãnh thổ Miền Nam Tự Do, Việt Nam Cộng Hòa; rồi trong những dịp họp mặt các hội cựu quân nhân thuộc các binh chủng QL VNCH ở hải ngoại, họ có dịp kể lại cho nhau nghe những chiến công oanh liệt trong binh chủng của mình, đánh thắng cộng quân trong những chiên trận tàn khôc, đấm máu nhất trong lich sử chiên tranh Việt Nam, trải dài hơn 20 năm, chăng hạn như những trận chiên Đông Xoài Bình Giả, pleime, dakto, Khe Sanh, Hành Quân Lam Sơn Hạ Lào, Mùa Hè Đỏ Lửa 72, bao gôm các trận đánh lớn tại Bình Long, Kontum, Quảng Trị, Thừa Thiên v.v.. với ý chí quyêt chiến quyết thắng quân thủ cộng sản, thả chết trong danh dự, chứ không chịu buông súng đầu hàng cộng quân xâm lăng, khát máu, bạo tàn như những con thú dữ, cố tình xâm chiếm Miền Nam VNCH trước năm 1975.
Tôi về hưu đã hơn 2 năm nay và cũng đang ở trong trạng thái y hệt như những điều tôi vừa trình bầy trên đây, hễ lúc nào rảnh rỗi, tôi ngồi ở nhà một mình, ôn lại những kỷ niệm vui buồn nhiều năm trước 1975 và kể từ ngày tôi được đặt chân trên mảnh đất hoàn toàn Tự Do Dân Chủ này và nhờ đó, quyền sống tối thiểu của Thượng Để ban cho con người được đảm bảo và được chính quyền triệt để thi hành, đúng như trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đã quy định rõ, là Chính Quyền Bởi Dân, Vì Dân và Cho Dân. Sau đây tôi xin được chia sẻ cùng quý đọc giả, về một vài kỷ niệm khô quên trong cuộc đời của riêng tôi tại quê nhà và tại Hoa Kỳ như sau.
Kỷ niệm thứ nhất: Cách đây hơn 54 năm về trước, thời chính phủ VNCH tại quê nhà, qua sự giúp đỡ tận tình của người Cậu ruột của tôi là nhạc sĩ Hoàng Trọng, vì Bô tôi mât sớm, ông coi tôi như con ruột của ông, chỉ dạy tôi vê ân nhạc, nên tôi biêt sáng tác nhạc và biêt xử dụng đàn Tây Ban Cẩm khá thông thạo, đồng thời nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Lan dạy ca sĩ Bạch La, con gái nhạc sĩ Hoàng Trọng và tôi chơi đàn Dương Cẩm; thế rồi cứ mỗi cuối tuần, tôi đi đánh đàn trong ban nhạc Nha Quân Y, để giúp vui văn nghệ cho Thương Bệnh Binh QLVNCH, tại Tổng Y Viện Việt Nam Cộng Hòà trước năm 1975. Một thời gian sau, tôi thành lập ban nhạc riêng, lấy tên là ban nhạc Ngọc Quỳnh, Ngọc Quế, Ngọc Hải (Ngọc Quê đã qua đời, còn Ngọc Hải hiện là Linh Mục tại Pháp quốc), cùng với 3 cô em gái của tôi là Tuyêt Lê, Tuyết Lan, Tuyết Loan tức Kim Phụng, lập thành ban vũ Tuyết Lê, đi lưu diễn ở Vùng 4 Chiển Thuật và rạp Hát Thống Nhất Sàigòn nhiều lần, để gây quỹ, kiếm tiền nuôi dưỡng trẻ mồ côi cho Viện Dục Anh phái nam, đường Nguyễn Tri Phương, do Mẹ tôi làm Quản Lý và Viện Dục Anh phái nũ ở đường Công Quỳnh. Vài năm sau, Cậu tôi khuyên tôi nêu tôi muôn có tương lai vững chăc hơn, thì tôi nên tiêp tục đi học trở lại và ngay sau khi tôi lập gia đình, tôi đã từ giã văn nghệ hoàn toàn, để cắp sách đến trường theo đuổi ngành văn hóa. Một điều đáng ghi nhớ mãi, có lẽ không bao giờ tôi có thê quên được, là trong khi tôi dạy lớp Đàm Thoai Anh Ngữ Căn Bản tại trường Taberd Nguyễn Du Sàigòn, do Frere Bê Trên Adrien Phạm Van Hóa điêu hành, thì cứ vào mỗi cuối tuần, Frere Algilbert Nguyễn Văn Cách và tôi thay phiên nhau lái chiếc xe van của trường Taberd, chờ các bác sĩ và các chị em tình nguyện viên trong Ủy Ban Y Tế COMITA, đến những vùng thôn quê hèo lánh để khám bệnh, cắt tóc và phát thuốc miễn phí cho những người nghèo. Ủy Ban Y Tế này cũng do Frere Adrien điều hành, mà chúng tôi gọi Ngài là Ông Chủ.
Khi Frere Adrien từ Pháp sang Hoa Kỳ thăm thân nhân của Ngài, Ngài có ghé thăm tôi tại Oklahoma City. Đến năm 1988 trên đường đi dự Lễ Phong Thánh cho 117 vị Từ Đạo Việt Nam, tôi có ghé thăm Ngài tại một trường trung học, là nơi Ngài làm việc. Cuộc viềng thăm này làm tôi hết sức xúc động, là một Frere Bề Trên của một trường Taberd nồi tiêng ờ Saigon, đồng thời Ngài cũng là một giáo sư đi chấm thi Tú Tài Pháp Toàn Phần về môn toán lý hóa, trong nhiều năm trước 1975, thể mà bây giờ Ngài lãnh nhận một việc làm thấp kém, quá xa với trình độ văn hóa của Ngài, nhất là lại trong cùng một ngành văn hóa giáo dục của Ngài trước kia ở Việt Nam. Nhìn thây tận mắt tình trạng lên voi xuống chó của bậc Thây dạy tôi, làm tôi tự thâm nghĩ, nêu tôi sang đinh cư tại Pháp như Ngài, chắc may mắn nhât cho tôi xin được một chân làm phu quét rác đường phố Paris.
Ký niệm thứ nhì: Sang tới Hoa Kỳ, nhờ ơn Chúa thương, tôi may măn được phục vụ 3 nơi liên tiêp, mà 3 nơi này, việc làm của tôi đêu có liên hệ trực tiêp với đông bào người Việt Nam của chúng ta tại tiểu bang Oklahoma. Nơi đâu tiên trong 5 năm, từ tháng 5, 1975 tới tháng 5 1980, tôi phục vụ cho Cơ Quan Thiện Nguyện Công Giáo, gọi tắt là cơ quan USCC, với chức vụ là Đặc Trách Chương Trình Tái Định Cư Người Dân Tỵ Nan Đông Nam Á (Coordinator for Southeast Asia Refugees Resettlement Program) tại Oklahoma City, Oklahoma. Nơi thứ hai trong hơn 32 năm, từ tháng 5, 1980 tới tháng 2, 2012, tôi phục vụ cho Tòa An Liên Bang Hoa Kỳ (United States District Court for Western District Disttrict of Oklahoma) tại Oklahoma City, Oklahoma, với chức vụ là Phụ Tá Trưởng Phòng Tô Tụng (US District Court Deputy Clerk) Đặc Trách Luật Sư Đoàn Liên Bang Hoa Kỳ và Nhập Tịch (In charge of US Attorney Admission & Naturalization) tại Oklahoma City, Oklahoma. Nơi thứ ba trong hơn 20 năm, song hành với công việc làm tại Tòa Án, tôi được Đức Tổng Giám Mục Công Giáo Oklahoma City (Archbishop Eusebius J. Beltran for Catholic Archdiocese of Oklahoma City ) chi định tôi làm Tuyên Úy Trại Tù cấp liên bang và tiểu bang (Certified Federal Prison Chaplain), để vào thăm viếng các anh, chị, em tù nhân Hoa Kỳ và các tù nhân thuộc các quốc gia khác, không phân biệt màu gia, tôn giáo, sau khi tôi đã thụ huấn xong Khóa Huân Luyện Tân Tuyên Uy Trại Tù Liên Bang (Training Course for New Federal Prison Chaplains), do Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ tổ chức tại Aurora, Colorado vào năm 1993 và cho đến hiện tại, tôi vẫn đảm trách công việc thăm viếng và rao giảng Tin Mừng cho các anh, chị, em tù nhân trong trại tù.
Nhờ vào những công việc phục vụ hàng ngày của tôi tại Tòà Án và tại trại tù, nên tôi đã thu thập được nhiều những kinh nghiệm về ngành tư pháp, cũng như nghiên cứu các tài liệu về pháp lý, đề tôi viết những đề tài Pháp Luật Hoa Kỳ Thực Dụng (US Applicable Law Subjects), được dẫn chứng qua những câu chuyện tình cảm xẩy ra có thật 100%, mà những đề tài này đã được một số cơ quan truyền thông, trên trang mạng lưới diện tử cũng như trên báo chí, phổ biến trong nhiều năm qua, đến quý đọc giả ở Hoa Kỳ và ở hải ngoại đọc.
Được biết sau khi những đọc giả đọc những cậu chuyện pháp lý của tôi được đăng tải trên báo chí, thì phản ứng của đại đa số đọc giả cho biết, là họ rất thích thú đọc những câu chuyện pháp lý xẩy ra có thực này và cho rằng rất hữu ích cho những ai chưa hiểu rõ nhiều về luật pháp Hoa Kỳ; đồng thời cũng có một số ít đọc giả cho biết không hài lòng mấy về một số đề tài pháp lý, mà họ cho rắng tác giả không nên vạch áo cho người xem lưng, về những tội phạm của người Việt Nam nói riêng. Nhưng lại có một sô đọc già khác bác bỏ ý kiên này và khuyên tác giả nên tiếp tục phơi bây những hành động sự thật của bât cứ ai đã vi phạm pháp luật, như đã được kê lại trong các câu chuyện pháp lý, đê giúp cho nhiêu người khác hiểu rõ thêm những hành động nào, sẽ bị coi là vi phạm đến pháp luật Hoa Kỳ và có thể giúp cho người tạ tránh trước được những hành động vô tình vi phạm, phải trình diện trước tụng đình. Đối với những đọc giả nào cho rằng tác giả không nên vạch áo cho người xem lưng, theo yếu tố tâm lý chung của một số đọc giả cho biết, có lẽ vi tình cờ những người đó, trước kia đã có những hành động vi phạm pháp luật, nay đọc những câu chuyện này, ngâu nhiên cảm thấy nội dung của câu chuyện trùng hợp với chuyện của mình, nên họ bị tự ti mặc cảm tội lỗi, e sợ người khác biết chuyện không tốt của mình trong quá khứ, mà người ta thường nói: Có Tật Giật Minh.
Tuy nhiên, dù được đọc giả hài lòng hay không hài lòng, như tôi vừa mới trình bầy những lý do nêu trên, thực sự tôi vẫn cảm thây được sự khích lệ đáng quí của cả hai phía, vì nó đã đáp ứng với mục đích duy nhất của tôi, là làm thê nào có thể lôi cuốn được nhiều người đọc bài pháp lý, với hy vọng càng nhiều người đọc bao nhiêu, thi trực tiêp giúp cho nhiêu người sẽ hiêu biết rõ thêm về pháp luật Hoa Kỳ bẩy nhiêu. Trong khi chúng ta đang sinh sông trong một quốc gia tạp chủng, mọi người dân cần hiêu biết pháp luật càng nhiều càng tôt, thì mới biết thượng tôn pháp luật, vì chỉ có pháp luật mới bảo vệ được an ninh trật tự công cộng trong xã hội, nhờ thế người dân mới hưởng được quyền tự do, dân chủ, bình đẳng và hạnh phúc của con người, phát xuất từ gia đình ra đến các cộng đồng sắc tộc khác biệt nhau về tập quán, ngôn ngữ và văn hóa trong một xã hội tạp chủng của Hoa Kỳ.
Ký niệm thứ ba: Vào năm 1988, nhân dịp Lễ Phong Thánh cho 117 vị A Thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi được phép vào yết kiến Đức Giáo Hoàng Phaolồ Đệ Nhị (Pope John Paul II) tại tại Tòà Thánh Vatican City và được phép phó tế Lễ với Ngài trong Nguyện Đường riêng của Ngài. Sợ dĩ tôi được ban đặc ân này, là vì tôi là người Việt Nam đầu tiên trên thế giới có gia đình, được thụ phong chức Phó Tế Vĩnh Viễn (Permanent Deacon) vào ngày 31 tháng 3 năm 1979 tại Hoa Kỳ. Khi tôi quay trở về nhiệm sở làm việc và tôi có đưa tấm hình chụp tôi phó tế Lễ với Đức Giáo Hoàng cho ông Chánh Án (Chief Judge) là xếp của tôi xem, ông vui vẻ nói với tôi rắng: Trước khi anh lên đường để gặp Đức Giáo Hoàng, chúng tôi không dám nói ra ý nghĩ của chúng tôi lúc đó cho anh nghe, vì sợ sẽ làm buồn lòng anh trước khi anh lên đường, chứ tất cả các Quan Tòa (all Judges) trong tòa án này, đều nghĩ rằng anh sẽ phải đứng cách xa Đức Giáo Hoàng ít nhất một nửa dặm. Tôi trà lời: Ông Chánh Án nói rất đúng, nếu tôi đứng vào địa vị các Quan Tòa, tôi cũng nghĩ y như thế. Nhưng chắc ông Chánh Án vẫn còn nhớ, từ khởi đầu trước năm 1980 cho dến năm 1990, trước khi Đạo Luật Di Trú Hoa Kỳ thay đổi (US Immigration & Naturalization Law), đề trao cho Sở Di Trú toàn quyền thu lệ phí, cấp phát và ký Chứng Chỉ Nhập Tịch, thì chính ông Chánh Án đã chi định tôi nhân danh Tòa Án, ký tên vào những Chứng Chi Nhập Tịch ( Certificate of Naturalization), để cấp phát cho các ứng viên thuộc tất cả các quốc gia khắp trên thế giới, sau khi tuyên thệ nhập tịch tại Tòa An, trong khi tôi chỉ là người Việt Nam, đã được tuyên thệ nhập tịch trước họ, thì nay tôi lại được quyền ký tên vào chứng chi nhập tịch của họ, quả thật là một điều lạ lùng khó tin, cũng như tôi được phép phó tế Lễ với Đức Giáo Hoàng John Paul II, cũng lại là một điều lạ lùng khó tin.
Kỷ niệm thứ tư: Trong 5 năm liên tục từ 1975 tới 1980, tôi phục vụ cho cơ quan USCC như tôi đã trình bầy các chi tiết ở phần đầu, nhiệm vụ thiết yếu của tôi là tìm kiếm những người Hoa Kỳ và Nhà Thờ Công Giáo, cũng như Nhà Thờ Tin Lành bằng lòng bảo trở những người ty nạn cộng sản còn đang tạm trú ở các trại ty nạn tại Hoa Kỳ và tại các trại ty nạn ở vùng Đông Nam A. Nhờ kiêm được người bảo trợ, tôi đã lập thủ tục hành chánh pháp lý cho hơn 7 ngàn người ty nạn, được phép xuất trại ty nạn, đê được tái định cư tại tiêu bang Oklahoma. Trong suôt thời gian 5 năm đặc trách chương trình này, tôi vẫn còn nhớ 2 câu chuyện khá thương tâm của 2 gia đình người ty nạn mới được tái định cư tại tiểu bang Oklahoma như sau:
Gia đình ty nạn thứ nhất là một cặp vợ chồng thuộc thành phần trí thức, người chồng trước kia là giáo sư dạy toán lý hóa bậc trung học tại Saigon, còn người vợ cũng là giáo viên dạy bậc tiểu học. Hai vợ chồng ở tạm chung nhà với vợ chồng người bảo trợ có 2 con nhỏ. Khi tôi đến thăm hai vợ chồng ty nạn này, hai người đều khóc, than thở với tôi rằng: Hai ông bà bảo trợ coi chúng tôi như những tên đầy tớ giúp việc không công trong nhà. Mỗi sáng trước khi hai ông bà bảo trợ rời nhà đến sở làm, hai ông bà căn dặn vợ chồng chúng tôi ở nhà nhớ phải lau chùi cầu tiêu, nhà cửa, giặt quần áo, nấu ăn, tắm rửa cho 2 đứa bé, cho 2 đứa bé ăn, cắt cỏ ngoài vườn v.v.
Gia đình ty nạn thứ hai gồm hai vợ chồng, có 2 người con, đứa lớn nhât 12 tuổi, đứa nhỏ nhất 8 tuổi, người Cha là cựu quân nhân QLVNCH, người Mẹ là cựu nhân viên Bộ Công Chánh VNCH, người bảo trợ là chủ một nông trại, cách xa thành phô Oklahoma City khoảng 40 dặm, có mây vựa nuôi rắn đề bán và nuôi bò để vắt sữa bán. Người bảo trợ câp cho họ một căn nhà riêng cũng năm trong nông trại, ngay bên cạnh nhà chủ trại và cứ sáng sớm hai vợ chông phải đi theo người bảo trợ ra ngoài cánh đồng vắt sữa bò và cho rắn ăn cùng với ông chủ trại, cho tới chiều tôi mới về tới nhà và chi được nghỉ ngày Chúa Nhật. Khi tội đến thăm, hai vợ chồng vừa nói vừa khóc, ông chồng cho tôi xem với nhiều vết bầm tím trên hai cánh tay, vì bị rắn cắn trong khi cho chúng ăn, còn người vợ mặt mũi tay chân bị nắng cháy đen như người Mỹ da mầu, vì phải ra ngoài cánh đồng vắt sữa bò mỗi ngày. Hai vợ chồng yêu cầu tôi tìm kiếm người bảo trợ khác, để rời họ đi khỏi nơi này càng sớm càng tốt, chứ tình trạng cứ kéo dài như thế này, họ nói sẽ không thể sống nổi.
Kỷ niệm thứ năm: Liên tục hơn 20 năm là một Công Chứng Tuyên Úy Trại Tù (Certified Prison Chaplain) của Tổng Giáo Phận Công Giáo Oklahoma City, cùng với ông Nguyễn Văn Cường, cựu Phó Tỉnh Trường Lâm Đồng VNCH, do Đức Tổng Giám Mục chỉ định ông Cường làm Thừa Tác Viên Trại Tù ( Appointed Prison Minister), cà hai chúng tôi đều tình nguyện đến thăm nom những anh chị em tù nhân Hoa Kỳ và các anh chị em tù nhân thuộc các quốc gia khác, trong các trại tủ từ cấp tiểu bang lên đến cấp liên bang, vào những ngày cuối tuần trong nhiều năm. Nhưng cách đây khoảng 13 năm, một trại tù thuộc Quận Hạt Jefferson County của tiểu bang Oklahoma, nằm cách Oklahoma City hơn 100 miles, là nơi tạm giam giữ riêng biệt hơn 200 nam tù nhân, đến từ một vài tiểu bang miền nam Hoa Kỳ, trong tổng số anh em nam tù nhân này, có 90% là người Việt Nam, sô còn lại là Phi Châu, Lào và Mẽ. Vì có một vài nhân viên coi tù, đã có những lời nói thô lỗ, tỏ thái độ khinh bi một số anh em tù nhân Việt Nam nói riêng, nên tất cả tủ nhân trong trại đều đồng lòng tổ chức một cuộc bạo động (Uprising), bằng cách dùng những chiếc giường ngủ bằng sắt, làm chướng ngại vật, ngăn chặn bên trong các cửa phòng ngủ ra vào, không cho một ai có thể xâm nhập vảo bên trong các phòng ngủ của anh em được, anh em bên trong bắc loa phóng thanh ra ngoài, yêu cầu ông Trường Trại Tù (Warden) phải thuyên chuyển ngay tức khắc những nhân viên làm việc dưới quyền ông có tên đọc sau đây, phải bị sa thải hay thuyên chuyển ho đi nơi khác, vì những nhân viên này đã cư xử với họ lỗ măng và nếu ông Trưởng trại từ chối lời đề nghị của anh em, mà ra lệnh cho nhân viên phá cửa đê vào trong phòng bắt trói anh em, thì anh em chúng tôi sẽ châm lửa đôt các tâm nệm giường, để thiêu hủy tất cà các phòng ngủ. Vị Trường Trại Tù khẩn cầu tôi đến gấp trại tù và nhờ tôi làm người trung gian hòa giải cuộc bạo động này, vì ông tin tưởng là anh em tù nhân VN sẽ nghe lời tôi, mà mở cửa cho tôi vào thương lượng những điều kiện đưa ra của cả hai bên; còn nếu anh em không bằng lòng, thì bắt buộc ông phải áp dụng biện pháp quân sự, là ra lệnh cho những Vệ Binh Quốc Gia (National Guards) tìm cách ném lựu đạn cay vào các phòng, rôi phá cửa vào bắt trói các anh em lại, vì chung quanh trại tù cũng như trên nóc nhà đang có những vệ binh trực sẵn tại chô, chờ lệnh ban ra là thi hành. Nhờ ơn trên phù trợ cho vai trò hòa giải khó khăn này của tôi đã lành nhận, mà tôi đã may mắn được anh em tù nhân bằng lòng mở cửa cho một mình tôi vào gặp mặt anh em và cuộc hòa đàm đã đem lại kết quả tốt đẹp, ngoài sự mong đợi của đôi bên và để đáp lại lòng mong ước yêu cầu của tất cà anh em trong trại tù, ông Trường Trại đã bằng lòng cho phép chúng tôi tổ chức một bữa tiệc văn nghệ mừng Tết Nguyên Đán Việt Nam ngay trong trại tù, cho tât cà anh em tù nhân Việt Nam, Phi Châu, Lào và Mễ đang bị giam giữ tại dây được quyên tham dự bữa tiệc mừng Xuân Năm Mới này. Ngoài ra, sau đó ít lâu, do lời đê nghị của tôi lên câp trên, là nơi tôi đang phục vụ, ông Chánh Án Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ David Russel| tại Oklahoma City (US Chief Judge of United States District Court, Western District of Oklahoma), đã chỉ định một luật sư và một điều tra viên của tòà án, đi cùng với tôi đến trại tù để phòng vấn từng cá nhân và sau khi điều tra, nhận thấy anh em tù nhân nào sẽ không gây nguy hiềm trong xã hội, thì chúng tôi tiền hành các thủ tục pháp lý hành chánh, để 170 anh em được trả tự do tạm và được quyền đi làm trong lúc chờ đợi quốc gia nguyên thủy của mình, chấp nhận cho mình trở về lại nguyên quán hay không chấp nhận cho trở vê?
Kỳ niệm thứ sáu: Trong bữa tiệc tiễn đưa tôi về hưu được tổ chức tại Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ, có sự tham dự đông đủ của các vị cựu Quan Tòa cũng như các vị Quan Tòa đương nhiệm, các giới chức cao cấp trong ngành tư pháp liên bang cũng như tiều bang, các đồng nghiệp cùng sở làm, các bạn bè và các thân bằng quyến thuộc, chúc mừng tôi về hưu sau hơn 32 năm tôi đã phục vụ liên tục trong Ngành Tư Pháp Hoa Kỳ, tại Tòa Án Liên Bang, thuộc tiền bang Oklahoma. Nhân dịp này, nhân danh tòa án, luật sư Robert D. Dennis, Trưởng Phòng Tổ Tụng (US District Court Clerk) đã đọc bản tuyên dương công trạng của tòa án (Resolution of US District Court) ghi nhận những công lao tốt đẹp của tôi đã đạt được trên 32 năm qua tại tòa án này: A) Hoàn thành thủ tục pháp lý cho hơn 26 ngàn người, thuộc 50 quốc gia, được tuyên thệ nhập quốc tịch Hoa Kỳ tại tòa án, B) Hoàn thành thủ tục cứu xét đơn xin của hơn 16 ngàn luật sư được tuyên thệ, để lãnh bằng hành nghề luật sư cấp liên bang. Vì 2 thành quả tốt đẹp này, mà tôi đã được bà Chánh Án Miles LaGrange đương nhiệm, cho phép treo lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa trong bữa tiệc về hưu của tôi tại tòa án và cũng may mắn nhờ có ông Nguyễn Văn Sứ, Chủ Tịch Khu Hội Tù Nhân Chính Trị VNCH tại Oklahoma City, đã cung cấp cho tôi những lá Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ kịp thời, nên tội mới có đủ số cờ VNCH để treo trong phòng hội của tòa ăn, vì lệnh cho phép treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của bà Chánh Ăn ban ra, chỉ được biết trước 12 tiềng đồng hô. Cho tới ngày hôm sau, tôi được trao lá Quốc Kỳ Hoa Kỳ vinh danh thành tích Dân Sự Vụ của tối, là đã phục vụ được hơn 32 năm trong Ngành Tư Pháp Hoa Kỳ, mà lá quốc kỳ này đã được treo trên đinh Tòa Nhà Quốc Hội Hoa Kỳ 24 tiềng đồng hố, tại thủ đô Hoa Thịnh Đồn, đúng vào ngày 31 tháng 2 năm 2012 là ngày tôi về hưu. Phải nói đây là 2 sự việc chưa từng thây xây ra bao giờ, trong lịch sử của Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ, kể từ ngày tất cả các Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ, được khởi sự thành lập cho đến nay tại tiểu bang Oklahoma.
Nói tóm lại, bất cứ ai trong chúng ta đều có nhiều hay ít, những kỷ niệm vui, buồn, đặc biệt khó quên trong đời mình. Vì chính những kỳ niệm khó quên này, là những món ăn bồi dưỡng tinh thần cho chúng ta, mỗi khi nhớ đến nó, làm cho chúng ta cảm thấy vui lên trong tâm hồn, tạm quyên đi hiện tại những nỗi buồn phiền lo âu, trong cuộc sống vất và hàng ngày mà chúng ta phải trực diện. Đôi vớ những người Kitô Giáo nói riêng, Lời Chúa được ghi lại trong sách Tin Mừng theo Thánh Matthêu, chương 4, câu 4, trong bôi cảnh Chúa Giê-su được Thần Khí Chúa đưa vào hoang địa và chịu qui cám dỗ, Chúa phán: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4:4). Nhất là đối với những ai đang ở tuổi cao niên hay đã về hưu, thường có nhiêu thì giờ lăng đọng tâm hôn, ngôi một minh ôn lại những ký niệm đặc biệt trong đời mình, đê thương, để nhớ, để luyển tiếc một dĩ vãng êm đẹp, mà mỗi ngày mỗi xa dần chúng ta, trôi mau theo giòng thời gian như một giấc chiêm bao.
Phó Tế Nguyễn Mạnh San