Có nhiều cách cho thấy sự lễ phép. Khi xưa, trẻ con và ngay cả người lớn, khi gặp các bậc trưởng thượng đều khoanh tay thưa gửi, đi cùng với gọi dạ bảo vâng lễ phép, khi trao hay nhận một món đồ cho người lớn phải đưa hai tay…
Chí ít chuyện đó tồn tại cách đây hơn ba chục năm. Đưa hai tay bây giờ ít thấy và khoanh tay hầu như không còn. Dù sao thời đại mới, không nhất thiết sự lễ phép phải thể hiện bằng cách khoanh tay. Tuy nhiên cùng với việc mất đi hình ảnh lễ phép cổ điển thì sự lễ phép cũng kém đi rất nhiều.
Học sinh giật phắt quyển vở từ tay cô thay vì từ tốn nhận lấy, nếu không muốn đưa hai tay. Khi không hài lòng thầy cô, mà thường thì chúng không “hài lòng”, vì thầy cô là người toàn quyền trong chấm điểm, nhận xét hạnh kiểm, phê sổ liên lạc và học bạ… Lũ học sinh vùng vằng ra mặt ngay và chỉ trích giáo viên sau lưng bằng những câu hỗn hào. Không phải chỉ học sinh với giáo viên mà trong gia đình giữa cha mẹ với con cái, cháu với ông bà họ hàng cũng vậy.
Thời buổi mỗi nhà chỉ có từ một đến hai con khiến đứa trẻ được chiều chuộng, nuông chiều, đòi gì được nấy bởi hai bên nội ngoại, ông bà, hai cha mẹ, chưa kể cậu, dì, chú, bác… chỉ có một đến hai đứa cháu. Bao nhiêu người chỉ trông vào một đứa cháu để nâng niu. Dù nhà giàu hay nghèo thì đứa trẻ độc nhất trong đại gia đình cũng đã là con vua, cháu chúa.
Không cần con đại gia, ngay trẻ trong gia đình bình thường cũng là con vua. Chúng được cưng chiều, đầy quyền uy trên những người lớn quỵ lụy bao vây chung quanh. Hơn nữa, trẻ thành phố được miễn làm mọi việc, chỉ tập trung vào việc ăn uống và học hành, không có chỗ hở cho việc tiếp xúc xã hội, giao tiếp với mọi người…
Bin 13 tuổi học lớp Tám có cha là công chức, mẹ ở nhà nội trợ, đang ngồi ở phòng khách vừa ăn snack vừa xem tivi. Một bà khách đứng ngoài cửa hỏi vọng vào:
– Bà nội có nhà không cháu?
Bin ngoảnh ra nhìn xem ai rồi vội quay vào nhìn màn hình kẻo lỡ tình tiết đang gay cấn:
– Bà đi rồi.
– Đi lâu chưa cháu?
Biết mặt rồi nên Bi khỏi cần quay lại nhìn nữa. Tiếp tục vừa ăn, vừa theo dõi bộ phim, tuy khó chịu vì bị “phá đám” nhưng Bi cũng hạ cố trả lời:
– Lâu rồi.
– Cháu có biết chừng nào bà về không?
– Không.
– Bà nội đi bằng gì hả cháu, mẹ chở à?
– Không biết.
Tới đó bà khách đành lủi thủi quay về.
Dường như cuộc sống công nghiệp bận rộn gấp gáp khiến ai nấy không còn thời gian để nói với nhau những lời thư thái. Các phương tiện thông tin liên lạc qua NET và điện thoại đều dùng các câu nói không dài dòng, uyển chuyển mà rất ngắn gọn
Thêm nữa, giải trí của học sinh khiến chúng thích thú không phải là những cuốn sách, câu truyện cổ tích luân lý đạo đức cũ rích mà là truyện tranh, các trò chơi game đầy tính bạo lực. Ngôn ngữ trong những loại hình giải trí này thẳng băng, rút ngắn toàn những câu bá láp, không có chủ từ, ảnh hưởng không nhỏ đến ngôn ngữ của thanh thiếu niên. Cho nên con nít thời nay ưa nói nhát gừng, cộc lốc, không biết dùng chữ và dùng sai chữ, không có óc quan sát và không biết diễn đạt ý nghĩ bằng ngôn từ một cách mạch lạc, rõ ràng.
Đời sống đô thị mỗi người một phòng, một TV, một máy tính với những chương trình giải trí riêng tư. Giềng mối gia đình cổ truyền đã bị phá vỡ. Các thế hệ dù ở chung dưới một mái nhà vẫn khó gần nhau để hiểu và cảm thông nhau. Việc đọc sách khá ít. Vào tiệm sách rất dễ nhận thấy rất đông thanh thiếu niên tụ tập ở gian truyện tranh hơn là sách văn học, trong số đó không hiếm cả sinh viên say mê coi cọp truyện tranh manga Nhật Bản và manhwa Hàn quốc, đỡ mất công suy nghĩ, nghiền ngẫm văn chương.
Ngoài ra ngay từ nhỏ, ở bậc tiểu học, học sinh đã học quyền trẻ em, quanh đó còn các thứ liên quan như phát huy quyền trẻ em, tài hùng biện, tranh luận, tự giới thiệu và thể hiện về mình… Tính cách cá nhân được đề cao. Lối học này về mục đích đề ra rất hay nhằm phát huy tính độc lập của trẻ em nhưng kết quả đạt được dường như hơi lạc đường. Các khả năng cần phát triển thì không phát triển hoặc phát triển không bao nhiêu. Con nít chủ yếu bày tỏ quyền của mình bằng thái độ hỗn láo, ngang hàng với người lớn.
Chương trình văn rất nặng nề nhưng lại không thẩm thấu vào học sinh. Trẻ ngày càng thổ lộ tính tình và sự suy nghĩ hời hợt, không có chiều sâu, chỉ biết đến mình mà không quan tâm đến người khác.
Trước kia, các trường học và ở mỗi lớp học đều treo trên tường cao câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Lễ khi đó được đề cao, học lễ trước rồi mới học văn sau. Sau này, câu ấy xem chừng cũ mèm, “phong kiến” quá nên đã được thay bằng nhiều câu tân tiến hơn: “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui” chẳng hạn. Rồi cũng có một số trường quay lại Tiên học lễ nhưng câu Hán văn này mờ nhạt quá khi chỉ là câu khẩu hiệu treo trên tường.
Đạo đức có nằm trong chương trình giáo khoa chứ chẳng phải không nhưng dường như nó chìm lỉm, mất dấu trong vô số điều cao siêu. Học sinh học văn học nước ngoài, học về Liên hiệp quốc, học cách tổ chức, lập biên bản, viết đơn từ, học tranh luận, biện hộ… Dày đặc lý thuyết cao siêu và phức tạp học xong quên ngay mà không thực hành được trong thực tế, không màng đến cả một điều rất nhỏ nhặt như xếp hàng đợi tới phiên. Vì thế bất cứ chỗ nào đông người, người Việt đều xô đẩy, chen đạp bất kể phụ nữ, người già, trẻ nít để tranh giành chỗ. Báo chí từng đề cập sôi nổi tới việc sinh viên có nên nhường chỗ thang máy cho thầy cô hay không, dĩ nhiên không phải nhường chỗ xếp hàng mà là nhường chỗ trong việc xô lấn trước cửa thang máy.
Còn phải kể đến ảnh hưởng tập thể. Một cá nhân lễ phép hay không, nói rộng ra tính cách tốt hay xấu còn do lây nhiễm, tác động từ môi trường chung quanh. Thành thử trong nhà ngoan ngoãn, lễ độ, ra ngoài với bạn bè thành xấu không phải là điều lạ.
Trẻ được khuyến khích mua hoa hoặc quà cáp cho mẹ vào ngày 8 tháng 3 hoặc ngày Mother’s Day du nhập từ Tây phương, nhưng lại không biết nói năng và cư xử với cha mẹ lễ phép. Tình cảm trong nhiều trường hợp thể hiện qua vật chất hơn tình cảm Á Đông chân thành.
Một trong những lý do thiếu lễ là sự giàu nghèo ngày càng phân hóa. Đứa bé nhà giàu ý thức được sức mạnh đồng tiền nên không xem lễ là điều quan trọng. Ngày xưa người giàu đếm trên đầu ngón tay: chủ tiệm vàng, giám đốc, thương gia… Còn bây giờ ở thành phố, người nghèo như cát sông Hằng thì số người giàu cũng như sao trên trời… nhất là những người phút chốc trúng đậm do nhà đất, chứng khoán, vàng, ngoại tệ… Tiền nhiều để làm gì nếu không dành những gì đẹp nhất, tốt nhất cho con cái. Khi thoát khỏi sự nghèo khó, người ta chú trọng nhiều đến vật chất, cung cấp quần áo, đồ chơi và tiện nghi đắt tiền cho con cái, đồng thời dạy cho chúng biết đồng tiền có thể sai khiến mọi thứ. Giá trị vật chất được đặt cao hơn giá trị tinh thần.
Từ khi bắt đầu đi học, các con của đại gia đã được đặc biệt chăm sóc bởi quà cáp cho thầy cô. Nay lại thêm hệ thống trường tư, trường quốc tế… Ở nền kinh tế thị trường thì học sinh cũng là một loại khách hàng mà khẩu hiệu của kinh doanh là “Khách hàng là thượng đế”.
Năm giờ chiều, mưa lất phất, trên con đường kẹt cứng xe hơi: giờ tan học của một trường trung học quốc tế. Học sinh đứng trước cổng có bảo vệ che dù từ cổng trường ra tận cửa ô tô- cách khoảng ba mét. 6 giờ sáng, trong khu cư xá, chiếc xe đưa đón học sinh của một trường từ ngoài hẻm chính quẹo vào hẻm phụ khoảng ba căn biệt thự để một cô bảo mẫu xuống xe rước một cậu bé mười mấy tuổi lên. Xong tài xế lại phải de xe ra. Chỉ có vài chục mét nhưng cậu không hề bước chân xuống đất
Do cha mẹ giàu có, quyền thế, nhiều học sinh nhìn đời bằng nửa con mắt. Bao bạn bè đi ăn nhà hàng, đi chơi, quà cáp cho thầy cô… Vì sợ trường mất mối nên giáo viên trường tư đâm ra nể học sinh. Học ở Việt Nam thấy chán thì đi du học từ bậc trung học. Thi xong trung học, trong lúc các bạn bù đầu ôn thi thì có nhiều bạn tà tà đi chơi chờ ngày lên máy bay du học không cần luyện thi.
Một học sinh lớp Ba cho biết cậu chỉ chơi với những bạn đi học bằng xe ô tô và đòi cha mẹ can thiệp để được ngồi bàn trên, không cho các bạn khác vào chung nhóm học Toán với Lý do các bạn ấy không có máy vi tính như mình nên không thể thông minh như mình. Một cậu khác chuyên “mắng mỏ ” người làm và không thèm chào người lớn vì bà ấy “vừa xấu vừa già vừa mặc áo cũ”.
Từ trong gia đình và học đường đã vậy, nói gì ngoài đường. Ông nọ đi cắt cỏ ngoài ruộng về đến bến đò, phát hiện bốn cặp nam nữ đang tự ý tháo dây hai chiếc ghe của mình để chèo ra sông, ông phản ứng liền bị bốn thanh niên từ dưới ghe nhảy lên bờ dùng gạch ngói đánh tới tấp… xô ông ngã xuống sông. Ông Phước bò lên bờ chạy về nhà thì nhóm thanh niên cầm gạch rượt theo. Các con ông Phước nghe việc, ra chống trả. Nhóm côn đồ gọi điện cho nhóm khoảng mười thanh niên khác cầm mã tấu, tầm vông… kéo đến… Phần lớn bọn chúng đang ở lứa tuổi học sinh. Tại sao ngang ngược tự nhiên đến thế thì thật không hiểu.
Thật ra khi người trẻ vô lễ thì điều đó không hoàn toàn lỗi của họ mà do người lớn đã cung cấp một nền giáo dục què quặt. Ngay từ nhỏ, đứa trẻ không được dạy dỗ để biết cư xử, sinh hoạt đứng đắn trong một cộng đồng. Khi đứa nhỏ “Hi !” gọn lỏn thay vì “Thưa ông, thưa bà” thì phụ huynh hãnh diện trước tiếng Anh của đứa con, mà quên mất câu chào ấy được nói trong một xã hội Á Đông chứ không phải Tây Âu. Trong ngày Lễ Nhà Giáo, phụ huynh tặng quà rất thực tế cho giáo viên là một số tiền, nhiều người không để tiền trong phong bì mà đưa con cầm tay. Đứa nhỏ thường xòe tiền trước mặt giáo viên và nói “Tiền nè cô!”. Đa số giáo viên không nhận nhưng số ít vẫn nhận vì trường hợp này quá phổ biến đến trở thành bình thường. Nhất là người ta nhận thấy rõ ràng đứa bé hoàn toàn không ý thức sự vô lễ của mình. Chúng quen cư xử bình đẳng với tất cả mọi người như với đám bạn bè dễ dãi mà quên rằng sự bình đẳng và lễ phép- biểu hiện của văn hóa- là hai chuyện khác nhau.
Đa số người lớn không hiểu được chuyện ấy. Cho tới khi nào chính người lớn còn không hiểu lễ, không học lễ thì hoàn toàn không có quyền than phiền, trách móc lớp trẻ vậy.
Saigon cô nương