Nô lệ Việt Nam trên thế giới
Theo Chỉ Số Nô Lệ toàn cầu 2013 của Tổ Chức Đi Tự Do (Walk Free), vẫn còn 29.8 triệu người nô lệ trên thế giới (ước tính trong số 162 quốc gia). Con số này khá nhỏ nhoi so với tổng số dân trên thế giới hiện nay vào khoảng 7 tỷ người, một tỷ lệ 0.4%. Riêng Việt Nam có 248,705 người được xem là nô lệ, tỷ lệ 0.28% dân số.
Chỉ số mới này mang 2 ý nghĩa tích cực. Thứ nhất, tỷ lệ 0.4% toàn cầu tự nó không phải là đáng kể. Thứ nhì, định nghĩa về nô lệ thời nay đã mở rộng rất nhiều hơn định nghĩa hạn hẹp của ngày xưa. Nô lệ thời nay bao gồm những nô lệ hoàn toàn được xem là tài sản của chủ, và những người bị cưỡng bách lao động và bị bóc lột cách này hay cách khác. Thông thường nhất là những người bị bắt cóc, bị buôn lậu từ nơi này qua nơi khác, buộc phải phục vụ lao động hoặc tình dục, nhưng cũng bao gồm hôn nhân cưỡng bách, và những người bị lấy mất cơ quan nội tạng.
Việt Nam xếp hạng 64 trong số 162 nước, tức là dưới trung bình. Tính riêng về châu Á, Việt Nam đứng thứ 9 trong 25 nước, cũng dưới trung bình. Nô lệ Việt Nam mới có mặt ở nhiều nước ngoại quốc, trong vùng châu Á cũng như trên thế giới, thậm chí cả những nước có chỉ số nô lệ thời nay thấp nhất (tốt nhất) như Anh và Phần Lan.
Định nghĩa nô lệ thời nay rất khác định nghĩa thông thường vì nô lệ ngày nay có thể bắt đầu bằng sự tự nguyện của người nô lệ. Phần lớn có thể được xem là nạn nhân của lừa gạt nhiều hơn là bị bắt buộc theo nghĩa không còn lựa chọn nào khác, chẳng hạn như con cái của nô lệ đương nhiên là nô lệ theo luật ngày xưa. Ngày nay, đa số con người sinh ra tự do, nhưng có thể biến thành nô lệ vì hoàn cảnh và/hoặc bị lừa gạt.
Một ví dụ tiêu biểu cho loại nô lệ bắt đầu bằng tự nguyện ở Việt Nam là những người bị du vào hoàn cảnh nô lệ vì muốn tìm một tương lai tốt đẹp hơn ở một xứ sở khác. Từ 1975, người Việt đã chạy trốn chế độ Cộng Sản và tình trạng kinh tế thấp kém bằng nhiều cách vượt biên khác nhau. Trước là bằng thuyền, bằng đường bộ, rồi bằng giấy tờ giả để xuất cảnh bán chính thức và chính thức, rồi bằng cách kết hôn với người ngoại quốc và buôn lậu. Những người vượt biên bằng đường bộ và thủy đã từng bị cướp bóc và bắt để buôn bán thành nô lệ ở những nước trong vùng như Thái Lan, nhưng những người khác vẫn tiếp tục chấp nhận nguy cơ và liều lĩnh để thử thời vận.
Những người dùng cách buôn lậu (người) có thể chấp nhận tình trạng nô lệ ngay từ đầu như là điều kiện tiến đến một tương lai khá hơn: để trả chi phí cho chuyến buôn người, họ có thể chấp nhận một số nợ và hứa sẽ làm việc để hoàn lại. Đến đây, giao dịch chưa phải là cưỡng bách hoặc nô lệ. Nhưng thường khi đến nơi họ muốn, họ không được tự do kiếm việc khác mà bị buộc phải làm việc cho chính tổ chức buôn lậu, và số nợ của họ có thể không bao giờ dứt trong tình trạng lương thấp cộng với lãi cao. Tuy rằng nhập cư lậu có nghĩa là họ khó kiếm ra việc làm, hoặc việc làm đủ trả nợ, tình trạng bị bắt buộc làm việc (thường là bất hợp pháp) để trả nợ, và bị cột chặt vào nợ với mức lãi cao đã biến họ thành nô lệ thời nay.
Tương tự, nhưng người phụ nữ tìm cách kết hôn với người ngoại quốc để được xuất cảnh chính thức hoặc qua nạn buôn người cũng đã vào cuộc một cách tự nguyện. Một số may mắn đã có cuộc hôn nhân khá bình thường cho dù có đạt được tương lai tốt đẹp hơn như họ mong muốn hay không. Một số khác đã sa chân vào những hoàn cảnh nô lệ, bị cưỡng bách phục vụ lao động và tình dục cho ông chồng (hiếp dâm trong hôn nhân), hoặc bị bán thẳng vào động mãi dâm.
Cảnh nô lệ thời nay cũng có thể xảy ra cho những người xuất cảnh theo chương trình lao động ở nước ngoài. Tuy xuất cảnh hợp pháp, họ vẫn không tránh được cảnh bị bóc lột như nô lệ: làm việc 14 tiếng mỗi ngày, ăn cháo hoặc cơm và canh rau trường kỳ, thời gian còn lại thì bị nhốt tại chỗ làm. Nạn nhân thường thuộc thành phần kém học vấn, xuất thân từ nông thôn.
Không nhất thiết phải mơ ước tương lai tốt đẹp hơn ở một nước khác, mong một tương lai tốt đẹp hơn ở một vùng khác của Việt Nam cũng là nguyên nhân nhiều người rơi vào cảnh nô lệ thời nay. Đa số những vụ này là do gạt gẫm, hứa tìm việc ở một địa điểm ở Việt Nam nhưng lại lừa bán đi ngoại quốc.
Cuối cùng, không thể không nhắc đến những trẻ em bị buôn bán qua lại, thường là nạn nhân của gia đình và người thân trước khi là nạn nhân buôn người và chịu cảnh nô lệ. Đây là ví dụ gần gũi nhất của loại nô lệ truyền thống, nơi con người không hề có quyền tự chủ. Trẻ sơ sinh bị bán để cho người ngoại quốc nhận nuôi, lớn hơn thì để bóc lột lao động và tình dục, và lớn lên trong cảnh nô lệ có thể dẫn đến nô lệ trong tư tưởng, có nghĩa là không có mong muốn và không tìm cách thoát ra cảnh nô lệ.
Nô lệ nội địa
Vài con số liên quan trực tiếp đến vấn nạn nô lệ thời nay ở Việt Nam là những thống kê của chính phủ. Theo trang mạng của những tờ báo và tạp chí Công An Việt Nam, có 22 ngàn phụ nữ và trẻ em mất tích lâu ngày ở Việt Nam. Con số này chưa tính đến 80 ngàn phụ nữ xuất cảnh với những phương tiện hợp pháp cũng như bất hợp pháp, và 20 ngàn trẻ em được nhận nuôi ở ngoại quốc. Đa số 22 ngàn trẻ em và phụ nữ mất tích, và nhiều em trong số 20 ngàn em được nhận nuôi ở ngoại quốc cũng như nhiều phụ nữ xuất cảnh hợp pháp, có thể đã là nạn nhân của tệ nạn buôn người và trở thành nô lệ ở ngoại quốc. Nhưng tổng cộng hết những con số này, vẫn còn khoảng 125 ngàn người nô lệ thời nay ngay tại Việt Nam.
Chỉ có vài tờ báo Việt Nam loan tin về Chỉ Số Nô Lệ Toàn Cầu 2013 của tổ chức Đi Tự do (Walk Free), nhưng không hề nhắc đến những chỉ số của Việt Nam. Tin tức về nô lệ thời nay ở ngoại quốc thì có, nhưng không có tin về nô lệ thời nay ở Việt Nam. Chuyện này dĩ nhiên không có gì lạ. Tổ chức Walk Free đã cố tình mạ lỵ, hoặc đã sai lầm, vì với sự lãnh đạo ưu việt của Đảng, Việt Nam không thể có nô lệ thời nay! Chỉ buồn cười là những tờ báo trích báo cáo Chỉ Số như là đáng tin, thậm chí những thông tin về Trung Quốc đàn anh, mặc nhiên đã ngầm công nhận luôn những con số lượng định về Việt Nam.
Không có điều tra chính thức hay bán chính thức, nên không thể biết chắc con số, thành phần và nguyên do của những nô lệ thời nay ở Việt Nam. Nhưng chúng ta có thể suy đoán ra những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nô lệ thời nay cho nhiều người.
Nguyên nhân hàng đầu hẳn phải là cái nghèo. Khó khăn kinh tế thường là nguyên nhân đầu tiên đẩy người ta vào những chuyện liều lĩnh và thiếu lý trí cũng như đạo đức. Có thể cái nghèo của một số người là do chính lựa chọn cuộc sống và những tật xấu của họ, như những bà mẹ bán con để son phấn, sơn móng tay và ngồi sòng bạc, nhưng với đa số, cái nghèo là thứ họ không thể thoát ra được, trừ phi có phép lạ, hoặc một hành động bất chấp hậu quả.
Nguyên nhân thứ nhì, là nền văn hóa còn hủ lậu của Việt Nam. Cha mẹ xem con cái như công cụ lao động và tài sản có thể biến thành tiền bạc, chồng xem vợ như vật sở hữu, một thứ nàng hầu vừa làm việc vừa cung ứng tình dục, vui thì yêu chiều, bực lên thì đánh đập. Nạn chồng đánh vợ, khi say xỉn cũng như tỉnh táo, lúc có tiền cũng như túng thiếu, đánh để biểu thị và củng cố quyền lực, để trấn áp và đè nén vị thế phụ nữ, đã khởi đi từ ảnh hưởng phong kiến Khổng Mạnh, không hề bị lay chuyển với những tuyên truyền bình quyền phụ nữ sáo rỗng và bất lực từ chính phủ, nặng nề thêm vì vai trò ngày càng quan trọng hơn của người vợ trong kinh tế gia đình, đến nay vẫn còn là chuyện thông thường ở Việt Nam. Hỗ trợ cho thái độ đàn ông tối thượng, những người phụ nữ Việt Nam vẫn còn tin những giá trị Nho giáo và không đủ tự tin vào giá trị của chính mình. Cộng vào đó, là nhu cầu “có chồng” từ sức ép xã hội, khiến phụ nữ phải dằn mình nhẫn nhịn từ tính tình vũ phu đến những lần lăng nhăng của ông chồng, cho dù họ là nguồn thu nhập chính của gia đình chăng nữa.
Nguyên nhân thứ ba, là giáo dục. Có hai hướng giáo dục, một liên hệ đến văn hóa và cách sống, một là học vấn và kiến thức. Giáo dục về văn hóa cần biến chuyển của cả xã hội, sự biến chuyển tư tưởng của mỗi con người, như thế cha mẹ và thầy cô sẽ dạy con trai phải biết tôn trọng phụ nữ và dạy con gái phải tự tin. Việt Nam hiện nay có thể đã bắt đầu quá trình này, phần lớn nhờ những người phụ nữ tiên phong, thành công trong sự nghiệp và mạnh dạn tự tin trong cuộc sống riêng, nhưng sức trì trệ của lề thói lạc hậu cũng không phải là nhỏ. Trang mạng Gia Đình ở Việt Nam còn gọi phụ nữ độc thân là “gái ế”, trang VnExpress thì có lời khuyên những lời nên tránh nói với phụ nữ độc thân..., tất cả đều dựa trên nguyên tắc không lập gia đình là không được, với hàm ý “ế”. Đây cũng là tình trạng chung trên thế giới, có thể ít hơn nhưng vẫn tồn tại ở những nước tiên tiến nhất.
Nô lệ thời nay thường là những người thiếu học vấn và kiến thức, và chính vì thế họ trở thành những con mồi ngon cho những chủ nô thời đại. Thiếu học vấn, họ không thể nhận định hoặc hiểu những bản hợp đồng họ ký, hay dễ bị lừa đảo. Khi biết ra mình là nạn nhân, thiếu học vấn và kiến thức, họ khó thể tìm cách thoát ra, nhất là khi ở xứ sở ngoại quốc xa lạ về mọi mặt. Nguyên nhân của việc thiếu học vấn có nhiều lý do, nhưng hẳn phần lớn cũng liên hệ đến hai lý do đầu tiên, khó khăn kinh tế và văn hóa. Phải lo kiếm sống thì trẻ em không thể chuyên tâm học hành, hoặc những trẻ bị bán vào tình trạng nô lệ từ nhỏ dĩ nhiên không có cơ hội học hành, hoặc các trẻ em gái không được khuyến khích học.
Nguyễn Phương