Thính giả Văn Trọng Chiến có câu hỏi như sau:
"Tên tôi là Văn Trọng Chiến - 48 tuổi, hiện đang công tác tại Nam Hà - Việt Nam.
Tôi bị bệnh mạch vành và đã can thiệp đặt giá đỡ sten. Tôi xin hỏi là mình cần uống thuốc chống kết tập tiểu cầu trong bao lâu. Hiện tại tôi đang uống hai thuốc chống kết tập tiểu cầu là plavix 75 và asprin (biệt dược) như vậy thì xin bác sỹ cho biết tôi cần uống cả hay hai loại thuốc này hay chỉ một loại thuốc suốt đời.
Xin cảm ơn"
Bác sĩ Hồ Văn Hiền giải đáp:
Tải để nghe Bệnh mạch vành
http://realaudio.rferl.o...ad-814f-1b6b7994ab6c.mp31) Trị liệu kép kháng tiểu bản (DAPT)
Trái tim bơm máu đi nuôi dưỡng các bộ phận cơ thể. Tuy nhiên, chính nó cũng cần được nuôi dưỡng bởi những mạch máu riêng của nó. Từ y khoa Anh ngữ gọi các động mạch này là coronary arteries, chúng ta gọi là động mạch vành. Coronary có nghĩa là hình dạng giống như cái vương miệng đội trên đầu vua (corona) vì các động mạch này “bò” trên vành của phía trên trái tim.
Lúc mỡ đóng trong lòng động mạch, mạch máu sẽ hẹp lại (stenosis) và máu không đủ cung cấp cho nhu cầu năng lượng trái tim. Bệnh nhân thấy đau ở ngực lúc cố gắng làm một việc gì đó, hay xúc động mạnh, hay ăn uống nhiều; chúng ta gọi đó là angina pectoris (angina có nghĩa là bệnh làm cho nghẹt thở trong lồng ngực, khác với từ angina để chỉ một loại viêm, sưng họng), hay stable angina, effort angina. Cơn đau chừng vài phút, bớt đau lúc nghỉ ngơi và nhu cầu oxy tim giảm xuống. Nếu ví dụ do một cục máu đông (embolus), hoặc một miếng xơ vữa (plaque) trong vách động mạch bị tróc ra chạy vào dòng máu và làm tắc nghẽn khúc động mạch ở cuối dòng, mạch máu nuôi tim nghẽn luôn và tế bào một phần cơ tim không còn được oxy nuôi dưỡng, lúc đó bệnh nhân bị "nhồi máu cơ tim" từ tiếng Anh là "myocardial infarction". Bệnh nhân đau dữ dội đột ngột bên ngực trái, thường chạy lên cổ và chạy dài xuống cánh tay trái, tiếng Anh gọi là "heart attack" điển hình. Tuy nhiên cơn đau có thể không giống như vậy, nhất là ờ phái nữ.
Các can thiệp động mạch vành xuyên qua da (percutaneous coronary intervention, PCI) bao gồm những biệt pháp tái lập lưu thông trong các bệnh động mạch vành (coronary artery diseases, CAD) bằng các biện pháp như cắt các mảng vữa xơ trong mạch máu (atherectomy), nông mạch máu bằng bong bóng (balloon dilation), đặt stent (intracoronary stent) để giữ lòng mạch máu nở rộng.
Stent là một ống lưới nhỏ bằng hợp kim (vd; stainless steel, titanium) xếp gọn lại, được đưa bằng ống thông mạch qua da vùng háng, vào động mạch chủ (aorta), đi vào lòng động mạch vành chỗ nghẽn, làm cho nó bung ra để cho mạch máu nở ra, hết tắc nghẽn. Có loại stent "trần" (bare metal stent), có loại được tẩm thuốc và thuốc được thải ra từ từ (drug eluting stent, DES). Chất hoá học được stent thải ra từ từ tại chỗ có tác dụng ngăn chặn mô thẹo thành hình trong mạch máu, không cho mạch máu bị tắc nghẽn trở lại (restenosis prevention). Loại này (DES) từ từ thay thế loại stent kim loại trần (BMS). (1)
Stent kim loại trần cần DAPT ngắn hạn hơn. Sau khi đặt stent được tẩm thuốc [DES], thường bác sĩ cho bệnh nhân dùng hai loại thuốc aspirin và một loại P2Y 12 platelet receptor antagonist như clopidogrel (Plavix). Trị liệu này gọi là dual antiplatelet therapy (DAPT, “trị liệu kép kháng tiểu bản”) có mục đích ngừa máu cục thành hình ở stent (stent thrombosis), và các máu cục này có thể xuất hiện rất trễ. Theo khuyến cáo của các hội y khoa Mỹ, nên giữ bệnh nhân tối thiểu 12 tháng với trị liệu kép này. Hội tim châu Âu (European Society of Cardiology ) cũng khuyên chữa 6 tháng-12 tháng DAPT tuỳ trường hợp, tuỳ theo loại stent. Nói chung chưa có cơ quan nào dứt khoát khuyến cáo là trong trường hợp nào nên dùng thuốc lâu hơn thời hạn 12 tháng này, và bao nhiêu lâu. Trị liệu chống platelet càng kéo dài thì khả năng biến chứng chảy máu các bộ phận khác càng tăng. Thêm nữa, một số bệnh nhân cần giải phẫu vì lý do khác nên cần ngưng thuốc một thời gian, hoặc họ uống thuốc không đều, hoặc họ yếu quá cần ngưng thuốc sớm hơn. Hoặc có thể stent mới tốt hơn và có thể không cần uống thuốc DAPT đến 12 tháng. Tuy nhiên, những vấn đề này còn trong vòng khảo cứu và chưa có kết luận dứt khoát. Đương nhiên dù có kết luận dứt khoát, thì đây cũng là quyền quyết định của bác sĩ chuyên khoa trong từng trường hợp, các nhận xét ở đây chỉ hoàn toàn có tính cách thông tin mà thôi. Riêng về aspirin, các hội Y khoa Mỹ khuyến cáo dùng aspirin trước khi làm PCI và sau khi PCI sẽ giảm liều, tuỳ theo loại stent, nhưng vẫn giữ aspirin suốt đời.(2)
Chúc bệnh nhân may mắn.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Ngày 3 tháng 11 năm 2013
Tham khảo:
1)
http://www.medscape.com/viewarticle/772112 2) The American College of Cardiology/American Heart Association/ Society for Cardiac Angiography and Interventions Task Force of Practical Guidelines (ACC/AHA/SCAI) 2005 guidelines for PCI;
After the PCI procedure, in patients with no known allergy or increased risk of bleeding, aspirin 325 mg daily should be administered for at least 1 month after BMS implantation, for 3 months after SES implantation and finally, for 6 months after paclitaxel-eluting stent implantation; after which chronic aspirin therapy following stenting should be continued indefinitely at a daily dose of 75-162 mg (Class I Level of Evidence: B).
http://emedicine.medscap...446-overview#aw2aab6b2b2