Nữ nghệ sĩ Ekaterina “Katia” Gordeeva.
Broadway on IceQuận Cam không có tuyết, nhưng cư dân trong vùng vẫn tận hưởng thú chơi tuyết bằng cách lái xe lên Big Bear, Lake Arrowhead, Lake Tahoe, hoặc trong những bãi tuyết “dã chiến” thường được mang về trong các sinh hoạt lễ lạc cuối năm của những thành phố trong Quận.
Năm nay, thành phố Cerritos, một hòn ngọc nhu mì với những cơ sở công cộng kỳ vĩ và đầy mỹ thuật tại Quận Cam, đã mang ‘băng giá' về giữa ngày nắng ấm một cách ngoạn mục tại Trung tâm Nghệ thuật trình diễn của Thành phố Cerritos (Cerritos Center for the Performing Arts): giữa những bài nhạc bất hủ của Broadway và nghệ thuật trượt băng.
Mệnh danh “Broadway on ice," chương trình này được diễn vào những ngày cuối năm tây lịch 2013, và quy tụ những nghệ sĩ trình diễn thượng thặng ở cấp quốc tế, như nghệ sĩ trượt băng gốc Liên Xô Ekaterina “Katia" Gordeeva, dương cầm thủ Lincoln Mayorga, ca sĩ Davis Gaines và Ira Lauren. Những bài hát bất hủ của Broadway được chọn cho chương trình này bao gồm những bài hát kinh điển từ những vở A Chorus Line, Cabaret, Chicago, West Side Story, Gypsy, và Rent. “Broadway on Ice" khởi diễn từ tháng 11 năm 2004 và đã đến với trên một trăm ngàn khán giả.
Dương cầm thủ Lincoln Mayorga
Ca sĩ Ira Lauren chào đời ở Salzburg, Vương quốc Áo. Cô đã từng sống và chơi đàn violin trong 16 năm ở Cairo. Cô đã tốt nghiệp thanh nhạc và khiêu vũ tại trường Lee Strasberg ở Los Angeles. Ira Lauren học luyện giọng ở Vienna với Gerhard Kahry, và từng cộng tác với Walter Berry. Cô đã trình diễn trong nhiều chương trình nhạc và opera ở Mỹ, Úc, Đức, Ý, Bỉ, Hoà Lan, Ai Cập, Tây Ban Nha, và Bắc Âu. Sở trường của cô là ‘Operetta arias,’ và năm 2005, cô đã hát thể loại này cho First Viennese Opera Ball tại Dubai, cũng như cho một phim sẽ được trình chiếu năm 2014.
Ca sĩ Davis Gaines được biết đến nhiều qua vai diễn “Phantom of the Opera" - một vai mà ông đã diễn đến trên hai ngàn lần tại Broadway, Los Angeles, và San Francisco. Ông được trao giải The Bay Area Critics' Award for “Best Actor," và nhiều lần được chọn đóng vai chính trong các buổi diễn quan trọng như “Whistle Down the Wind" tại Hoa Thịnh Đốn. Davis Gaines đã từng trình diễn với các dàn nhạc giao hưởng tại Carnegie Hall, Kennedy Center, và Hollywood Bowl.
Tờ quảng cáo “Broadway on Ice”
Dương cầm thủ Lincoln Mayorga được tờ Los Angeles Times gọi là người đã đưa nghệ thuật dương cầm lên đến mức tinh tuyền (impeccable pianism). Ông còn có tài viết hoà âm và điều khiển dàn nhạc, và đã thường xuyên diễn cho Walt Disney Studios. Ông đã thu đĩa cùng những nghệ sĩ trứ danh như Johnny Mathis, Barbra Streisand, Vikki Carr, Mel Tormé, Phi Ochs, Andy Williams, Frank Zappa, và Quincy Jones.
Huyền thoại sống “Katia" Gordeeva
Trái tim của chương trình là một nghệ sĩ trượt băng vóc dáng nhỏ bé mang tên Ekaterina “Katia” Gordeeva, một cái tên lấp lánh nụ cười, tình yêu, mất mát, và sự trỗi dậy.
Gordeeva là một huyền thoại sống của nghệ thuật trượt băng. Một huyền thoại lãng mạn với một đứt đoạn bất ngờ và một sức sống tiềm tàng mãi đến hôm nay. Sinh năm 1971 tại Moscow, Liên Xô, Gordeeva học trượt băng từ khi mới 4 tuổi.
Cô đã nhiều lần đoạt những giải vô địch quốc tế khi trình diễn cùng người chồng quá cố và bạn đồng diễn là anh Sergei Grinkov (1967-1995), cũng như độc diễn từ năm 1995 trở đi. Gordeeva và Grinkov đã đạt đến sự hài hoà vô tiền khoán hậu mà giới bình luận gọi là là “hai người đã trượt băng như một.”
G&G đã hai lần đoạt huy chương vàng tại Thế Vận Hội thế giới năm 1988 ở Calgary, Canada và và năm 1994 tại Lillehammer, Na Uy. Họ đoạt bốn giải vô địch thế giới năm 1986, 1987, 1989, 1990, ba giải vô địch Châu Âu năm 1988, 1990, 1994, và vô địch Liên Xô và Nga năm 1991, 1992, 1994.
Sau nhiều năm cùng diễn, sự nghiệp của họ cũng nở rộ với tình yêu. Năm 1989, Grinkov nhận ra rằng, cô bé vẫn nắm tay anh trên sàn tuyết không còn bé nữa. Họ yêu nhau và cưới nhau năm 1991, và một năm sau đó, đón nhận niềm vui tuyệt vời mang tên Daria Sergeevna Grinkova. Cả thế giới chiêm ngưỡng tình yêu và nghệ thuật G&G như một món quà của Thượng Đế.
Một cảnh trình diễn trong chương trình “Broadway on Ice”
Năm 1995, Grinkov đang cùng vợ tập dợt thì bị đột tử tại Lake Placid ở New York vì một chứng bệnh tim di truyền. Khi đó, Gordeeva mới 24 và Grinkov mới 28, con gái Daria mới 3 tuổi. Cả thế giới đã khóc thương Grinkov với Gordeeva. Sàn tuyết đã không còn là thiên đường của Gordeeva nữa, vì cánh tay ấm áp của Grinkov không còn ôm ấp cô trong vũ điệu ‘hai mà một.’
Tưởng không bao giờ có đủ nghị lực để một mình trở lại sàn tuyết, nhưng Gordeeva đã dùng chính tình yêu dành cho chồng và sự động viên của bạn bè để tiếp tục trình diễn. Với bản lãnh và kỹ năng của một nghệ sĩ trượt băng cấp quốc tế, Gordeeva đã diễn solo suốt 12 năm trong chương trình “Stars on Ice" và tiếp tục lưu diễn khắp nơi trên thế giới. Sau bảy năm goá bụa, cô tái hôn năm 2002 với anh Ilia Kulik, cũng là một nghệ sĩ trượt băng thượng thừa gốc Liên Xô. Gordeeva cùng Kulik mở một trung tâm trượt băng tại Lake Forest, California, được thiết kế, xây dựng, và điều hành bởi người trượt băng dành cho người trượt băng.
Cải lương Việt, nhạc kịch MỹTrong những lần xem nhạc kịch ở thành phố Nữu Ước từ năm 2002 đến hôm nay, tôi nhận ra nhiều điểm tương đồng giữa nhạc kịch Mỹ và cải lương Việt.
Khi xem nhạc kịch, mỗi khi ca sĩ hát trình diễn xuất thần phần cao trào trong một bài hát, thì khán giả vỗ tay rào rào, y như khi khán giả Việt hưởng ứng một nghệ sĩ cải lương dài hơi, giọng đẹp.
Khi vở nhạc kịch đến hồi mùi mẫn hay tha thiết - dù đó là tình yêu lãng mạn, tình yêu con người, hay một cảnh đời éo le nghiệt ngã - thì khán giả cũng sụt sùi khóc. Điểm này rất giống với khán giả Việt xem những tuồng cải lương xã hội nói về cảnh nghèo và những cuộc tình dang dở oan trái.
Ngược lại, tôi cũng thấy nhiều điểm dị biệt rất lớn giữa hai mảng nghệ thuật này. Nhạc kịch được người Mỹ trân trọng, được diễn ở những nhà hát lớn như Cerritos Center for the Performing Arts, hoặc ở ‘thủ đô' Broadway thì có cả một khu nhà hát với rạp riêng cho mỗi vở kịch, với sân khấu và biên đạo được dàn dựng công phu, và một dàn nhạc hùng hậu.
Cải lương vẫn mang kiếp lều rạp, ghe xuồng, dù được nhiều người yêu thích, trong đó một con số rất lớn là giới bình dân. Cải lương hôm nay dù có được giới học giả tìm hiểu, thì những tài liệu học thuật và chuyên đề về cải lương vẫn còn rất giới hạn. Tại Việt Nam, dù chính quyền có tổ chức những giải thưởng về cải lương, thì họ cũng không giúp duy trì nghệ thuật trình diễn này, cũng như họ đã không tạo được hiệu quả trong việc giữ gìn nghệ thuật ca trù ở miền Bắc, vốn được UNESCO chọn là một di sản tinh thần của nhân loại.
Tại hải ngoại, cải lương cũng chưa được trân trọng tổ chức tại các hí viện như những chương trình tân nhạc. Phải chăng đó là vì cải lương vốn xuất thân từ những tâm tình dân dã, một nghệ thuật gần gũi với nếp sống không nặng về hình thức phòng ốc, nên không đòi hỏi chỗ nơi trang trọng, mà đặt nặng về người xem, về một không gian mở và thoáng?
Từ “Broadway on ice,” tôi nghĩ: khó có thể có “Cải Lương on ice,” vì nghệ sĩ cải lương thường mặc cổ trang, khó mà trượt băng được, chỉ trừ phi điều chỉnh trang phục một cách hữu hiệu.
Nhưng nếu một ngày nào đó, cải lương được đưa vào diễn một cách thường xuyên và trân trọng trong những nhà hát tân kỳ, thì tôi cho rằng, hình thức nghệ thuật này sẽ vẫn giữ được nét chân quê của nó, nhưng sẽ có một chỗ đứng xứng đáng hơn trong sinh hoạt nghệ thuật trình diễn. Và nếu có tác giả nào soạn được vở cải lương về chuyện tình hy hữu đầy cảm động của Gordeeva-Grinkov, thì chúng ta sẽ được thưởng thức một tác phẩm thật đẹp có đủ ba yếu tố: cải lương, trượt băng, và Tây-Ta giao duyên.
Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Photo: Cerritos Center for the Performing Arts
Sửa bởi người viết 04/02/2014 lúc 07:15:07(UTC)
| Lý do: Chưa rõ