Nguyễn Đức Quang yêu Đà LạtRồi mùa hè 2004 – thời gian mà tôi gọi là ‘tuần trăng mật với thơ’ vì tôi ra mắt hai tập thơ cùng một lúc trước khi đi xa – tôi cũng lại có dịp mời Chú Nguyễn Đức Quang hát. Đó là chương trình "X-X1: Thuyền Nhân Khúc Cho Ba – Songs for a Boat Father" do Hội thơ PiVA Poets in VietnAmerica và ftsmj Productions tổ chức tại Viện Việt Học. Chương trình gồm có phần ra mắt tập thơ song ngữ cùng tên vào mùa hè năm 2004, một buổi thơ-nhạc-tranh-ảnh song ngữ để tôi chia tay với bạn bè trước khi sang Thụy Điển làm nghiên cứu.
Hôm đó, Họa sĩ Ann Phong triển lãm các họa phẩm chủ đề “Thuyền nhân,” và nói về quá trình Cô sáng tác loạt tranh này. Nhà thơ Du Tư Lê đã phát biểu một số nhận định về sinh hoạt thơ ca của tôi, nhất là những suy nghĩ của ông về tập thơ song ngữ này. Ông Nguyễn Văn Thọ, vốn mưu sinh bằng nghề chụp ảnh khi còn ở trên đảo, đã triển lãm hình ảnh phóng sự rất giá trị về đời sống tại trại tị nạn Galang trong thời gian thuyền nhân bị cưỡng bức hồi hương. Giáo sư Tiến sĩ Sun Laichen, Đại học Cal State Fullerton, đã chia sẻ sự yêu mến của ông đối với lịch sử Việt Nam, và tương quan giữa tập thơ "X-X1: Thuyền Nhân Khúc Cho Ba – Songs for a Boat Father" với dòng lịch sử Việt Nam cận đại.
Các em học sinh Việt ngữ Trường Westminster, lớp của Cô Hoa, đã diễn đọc một số bài thơ, với những cảm nhận từ Cô giáo Việt ngữ Mandy Phượng Trần, Cô sinh viên Vicky Dương, và Đạo diễn Vũ Duy Hảo. Nhà văn Đặng Thơ Thơ đã ưu ái cùng đọc bản song ngữ “trước ngày biệt xứ” với tôi. Chị đọc tiếng Việt, xen kẽ với phần tôi đọc tiếng Anh. Ca sĩ Lê Hồng Quang hát “Đêm nhớ trăng Sàigòn” và “Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển” – thơ Du Tử Lê, nhạc Phạm Đình Chương, tiếng đàn guitar Nguyễn Đức Quang.
Chương trình cũng lại được kết thúc với tiếng hát và tiếng đàn của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang. Hình như đối với tôi, Chú Quang là người ‘có hậu,’ nên tôi lúc nào cũng ‘bắt’ Chú gom mây góp gió để đón mưa về, làm tươi xanh cuộc đời. Và thật thích hợp, Chú hát hai bài nhạc tình: một là tình quê, hai là tình yêu.
Trước khi thực hiện hai chương trình này, tôi đã có dịp phỏng vấn Chú 'dài hạn' (nghĩa là trong nhiều giờ, và về nhiều chuyện) khi tôi thực hiện Dự án về Truyền Thông của người Việt tại Little Saigon vào thập niên 1990. Dự án này là một phần của Dự án VAP. Đó là lần đầu tôi nói chuyện nhiều và nói nhiều chuyện với Nguyễn Đức Quang. Tôi hơi bất ngờ khi thấy Chú nói chuyện rất đơn sơ, bình thản, và có phần vô tư. Cái bất ngờ đó dễ dàng qua đi, nhưng tôi muốn giải thích lý do tại sao tôi lại bất ngờ về cung cách của Chú trong cuộc phỏng vấn.
Đối với tôi, Nguyễn Đức Quang là một cái tên sừng sững như Ba Vì. Nhạc của ông là sông Hồng, sông Lô, sông Đáy, sông Cửu Long, sông Bạch Đằng, chuyên chở bao tâm tình dân tộc, sóng sánh tình người, thấm đượm hương quê, óng ánh niềm tự hào dân Việt. Cho nên có lẽ chính tôi cũng ‘tưởng tượng’ ông là một người oai phong lẫm liệt như những dòng sóng nhạc cao ngất. Nhưng trong lần gặp đầu tiên ấy, tôi mới biết, ông hiền hòa và đơn sơ, khiêm nhu và thanh thản như một buổi sáng mùa hè trên Hồ Xuân Hương thuở nào. Nguyễn Đức Quang yêu Đà Lạt. Phải chăng vì vậy, mà trong phong cách của ông cũng có chất gì rất Đà Lạt?
Khi sang Thụy Điển một năm để thực hiện nghiên cứu về người Việt tại đây qua sự bảo trợ của Chương trình Fulbright thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, tôi cũng có ý muốn đưa Chú sang hát Du ca trong các sinh họat cộng đồng bên đó. Nhưng người Việt tại Thụy Điển vốn không có một tổ chức cộng đồng rõ rệt, và cũng ít có những sinh họat cộng đồng quy mô, nên tôi không thực hiện được điều mong ước. Chú Quang có gửi email nhắc tôi, và cũng tỏ ý tiếc một dự tính không thành, nhưng tôi biết, sau này, Chú cũng đã đi du ca khắp trời Âu. Bây giờ, Chú muốn đi hát ở đâu, thì cũng không cần mua vé máy bay, và cũng không cần người dọn đường nữa.
Năm 2012, nhân giới thiệu một người bạn bên Project Vietnam với một chủ bút để nhờ giúp quảng bá về sinh hoạt của Hội trên báo, tôi chợt nhớ Chú Quang quá! Tôi nhớ đến Chú trong câu chuyện này, vì Chú cũng là một thành viên sáng lập của Hội. Hình như trong mọi lãnh vực sinh hoạt của cộng đồng – từ sinh hoạt thanh niên đến sinh hoạt từ thiện – Chú Quang đều góp mặt, miễn là nó mang lại ích lợi cho con người – với cái nhiệt huyết vẫn ngùn ngụt từ thời Thanh niên sinh hoạt học đường ngày nào.
Tuy tôi yêu nhạc Nguyễn Đức Quang , nhưng có một vài bài hát có ca từ làm cho tôi thắc mắc và có phần khó chịu, như "Nỗi buồn nhược tiểu." Thơ Nguyễn Văn Hoàn, nhạc Nguyễn Đức Quang, Đàlạt 1964, hát theo giọng buông, chua xót. Đây là ca từ của phiên khúc 1, mở đầu bài hát:
Tôi chót sinh ra làm dân nhược tiểu
Nỗi tủi hờn căm bừng trên tay
Nỗi nhục nhằn chĩu nặng đôi vai.
Tôi chót sinh ra làm dân nhược tiểu,
Ôi đau thương xâm kín hình hài,
Niềm đau thương của kiếp đọa đày.
Tôi chót sinh vào nước chia cắt,
Nỗi thù hằn còn đục lòng sông.
Tôi chót sinh vào nước chia cắt,
Tình anh em máu chảy thành dòng…
Có lẽ tôi không sinh vào thời của Nguyễn Đức Quang, để hiểu và chấp nhận cái thực tế lịch sử của một nước Việt Nam bị chia năm xẻ bảy, bị ngoại bang thao túng, vừa thóat ách đô hộ của Pháp, và đang bị làn sóng đỏ xâm chiếm. Đến hôm nay, tôi vẫn thắc mắc, và vẫn khó chịu khi nghĩ đến những bài hát này, nhưng tôi cũng cảm nhận nó với một khoảng cách về thời gian và khoảng cách về nhận thức từ kinh nghiệm. Tôi chấp nhận “Nỗi buồn nhược tiểu” của Nguyễn Đức Quang, cũng như tôi ôm ấp "Việt Nam quê hương ngạo nghễ" của ông. Phải chăng, vì yêu quê hương đến tha thiết, mà ông mới đau lòng, thốt lên những tiếng thán trong “Nỗi buồn nhược tiểu” như vậy? Mà thật ra, cái nhận chân chua xót ấy chỉ là tiền đề cho một quyết tâm vun bồi cho quê hương, như trong đoạn kết:
Hãy đứng dậy hỡi anh này
Hãy đứng dậy hỡi em này
Bao người con Việt Nam
Cùng tay cầm tay
Dựng xây đất nước
Cho đất Việt hết điêu tàn
Cho nước Việt hết nguy nàn
Cùng chung lưng nhìn quê hương
Tiến bước lên nhịp nhàng
Việt Nam! Ôi, Việt Nam!
Kỷ niệm với Nguyễn Đức Quang không phải lúc nào cũng có mặt ông. Sau khi làm "Trưởng làng" cho Làng Văn Hóa do Liên Hội VAYA tại San Diego tổ chức ở Balboa Park năm 2009, tôi mời cả làng về ăn tối tại căn hộ ký túc xá của vợ chồng tôi tại Làng Thùy Dương, La Jolla. Chúng tôi nấu nướng, ăn uống với nhau, rồi hát. Hát đủ thứ: hát nhạc dân ca, nhạc trữ tình, nhạc tiền chiến, và nhạc Du Ca. Điều gì đã khiến cho Nguyễn Đức Quang hiện diện với con người Việt Nam – nhất là giới trẻ đang vào đời – trong mọi nơi và ở mọi hòan cảnh? Lúc nào, người ta cũng có thể hát nhạc Nguyễn Đức Quang. Ông là một ông thần có phép hóa thân, ở nhiều nơi cùng một lúc, qua dòng nhạc yêu nước yêu người của mình.
Cho nên, tôi nợ ông Nguyễn Đức Quang không chỉ hai chương trình tôi thực hiện mà trong đó ông đã hát bằng trái tim, vì niềm yêu cuộc đời và con người. Tôi nợ ông tất cả những bài hát đã chở đời tôi về gần hơn với hồn thiêng dân tộc, nợ ông những bài hát tôi thắc mắc và khó chịu, nợ ông những đêm khuya thức trắng với bạn hát về một quê hương bên kia Thái Bình Dương, nợ ông một Việt Nam dù ẩn hiện trong sương khói của quá khứ vẫn làm tôi rạo rực và trằn trọc không ngừng. Nợ Chú nhiều lắm, Chú Quang ơi! Nợ mà cháu không muốn trả, lại muốn nợ thêm, nợ hoài! Một món nợ càng sống, càng cần.
Ở bên kia, chắc Chú Quang hát còn hăng hơn nữa, vì không còn giới hạn của thân xác. Ở bên này, chúng ta ắt phải hát nhiều và hát mạnh hơn nữa, để theo cho kịp người nhạc sĩ Du Ca tài hoa và thân yêu ấy.
"Ta như nước dâng..." Hát nữa đi, Du ca Nguyễn Đức Quang! Hát mãi nghe, "Việt Nam quê hương ngạo nghễ!"
Trangđài Glassey-Trầnguyễn