Nhà văn Bình Nguyên Lộc, “Tam kiệt Việt Nam”. Năm 1974, nhà xuất bản Sóng do nhà văn Nguyễn Đông Ngạc chủ trương, đã thực hiện tuyển tập truyện ngắn nhan đề “Những truyện ngắn hay nhất của quê hương ta”, gồm 45 tác giả, 45 truyện ngắn. (1) Họ Nguyễn đã gửi một câu hỏi chung cho 45 tác giả được mời tham dự. Đó là câu hỏi “quan niệm về truyện ngắn”.
Trả lời câu hỏi này, nhà văn Bình Nguyên Lộc viết:
“Theo tôi thì thể truyện ngắn khá cô đọng, tuy không cô đọng như thơ, chớ vẫn không quá loãng như tiểu thuyết. Viết truyện ngắn thì dễ làm loại văn xúc tích hơn là truyện dài. Loại văn súc tích rất cần cho một loại đề tài nào đó, mà người viết sẽ không thành công nếu họ dùng loại truyện dài.” (2)
Phát biểu trên của một nhà văn sinh trưởng ở miền Nam, tác giả khoảng 1,000 truyện ngắn, trên 50 tiểu thuyết, 4 tác phẩm nghiên cứu, trong đó bộ “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” dày trên 1,000 trang. Cuốn đầu đã được xuất bản, phần còn lại khoảng 800 trang viết tay, coi như bị thất lạc.
Theo Wikipedia-Mở thì, hành trình văn chương, nghiên cứu của nhà văn Bình Nguyên Lộc có thể tạm chia thành bốn thể loại chính. Tóm tắt như sau:
Nhà văn Nguyễn Đông Ngạc
“Cổ văn: Bình Nguyên Lộc chú giải các tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam bao gồm Văn tế chiêu hồn (Nguyễn Du), Tiếc thay duyên Tấn phận Tần (Nguyễn Du), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận). Các công trình này lần lượt được công bố trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn.
“Dân tộc học: Nổi bật là tác phẩm ‘Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam’ (1971). Đây là một công trình dài hơi trong sự nghiệp nghiên cứu của ông. Với tác phẩm này, tác giả đã góp phần vén lên tấm màn dày đã từ lâu phủ kín nguồn gốc mù mờ của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng gây nên một dư luận đáng chú ý đối với các nhà nghiên cứu về Việt Nam Học.
“Ngôn ngữ học: Tiêu biểu là tác phẩm Lột trần Việt ngữ (1972), là một cái nhìn mới về ngữ nghĩa tiếng Việt. Bình Nguyên Lộc đứng trên quan điểm dân tộc học để tìm hiểu nguồn gốc và ngữ nguyên của Tiếng Việt từ thời cổ đến thời hiện đại.
“Sáng tác: Đây là phần đồ sộ nhất trong hành trình sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Ông từng viết tiểu thuyết bằng thơ trường thiên như Thơ Ba Mén, Việt sử trường ca, Luận thuyết y học, Thơ thổ ngơi Đồng Nai, Ca dao... Ông còn có công sưu tầm được hàng chục nghìn câu ca dao và có chú thích về từng đặc trưng của nó. Ngoài ra, ông viết hàng nghìn truyện ngắn và truyện dài kỳ với nhiều đề tài khác nhau…”
Chính vì sự nghiệp sáng tác cũng như trước tác của nhà văn Bình Nguyên quá đồ sộ, cho nên, trong loạt bài nhan đề “Sống và viết với…Bình Nguyên Lộc”, nhà thơ Nguyễn Ngu Ý, đã xếp ông vào danh sách “Tam kiệt” của Việt Nam; bên cạnh Hồ Biểu Chánh và Lê Văn Trương. (3)
Về tiểu sử, người ta được biết, nhà văn Bình Nguyên Lộc, tên thật Tô Văn Tuấn. Giấy khai sinh ghi ông sinh ngày 7 tháng 3 năm 1915 tại làng Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Nhưng theo Wikipedia-Mở thì:
“…Trên thực tế có thể ông sinh ít nhất một năm trước ngày ghi trong giấy khai sinh, nghĩa là năm 1914, nhưng không rõ có đúng là ngày 7 tháng 3 hay không…”
Theo một tư liệu của tác giả Nguyễn Ngọc Chính ghi nhận về bút hiệu Bình Nguyên Lộc thì, được tác giả Nguyễn Ngọc Chính viết xuống như sau:
“…Nhà văn còn giải thích rõ bút hiệu Bình Nguyên Lộc của ông. Viết cho đúng thì chữ ‘nguyên’ không viết hoa và phải có gạch nối với chữ Bình vì ‘Bình-nguyên’ nghĩa là đồng bằng. Còn ‘Lộc’ là con nai, ông người gốc Ðồng Nai, nơi có dòng sông mang cùng tên nổi tiếng miền Đông Nam Bộ.” (4) Nhưng cho đến ngày “Tam kiệt” của văn chương Việt Nam từ trần, dường như không một nhà xuất bản hay nhà báo nào chú ý để viết đúng theo ý nghĩa của bút hiệu Bình nguyên-Lộc / Tô Văn Tuấn! (5)
Về những ngày đầu khởi nghiệp văn chương của họ Tô, Nguyên Lộc, vẫn theo tác giả Nguyễn Ngọc Chính thì:
“Trong tập hồi ký viết giang giở trước khi từ giã cõi đời tại Hoa Kỳ mang tên Nếu tôi nhớ kỹ, Bình Nguyên Lộc cho biết ông viết văn, viết báo từ năm 1942 nhưng đến năm 1952 mới đứng ra làm công việc có liên quan đến báo chí. Ông chủ trương tờ Vui sống, tuần báo văn nghệ có khuynh hướng y học với mong muốn áp dụng kiến thức y học phổ thông vào đời sống thực tế.
“Năm 1956, ông cùng các văn hữu cho ra đời tờ Bến Nghé, tuần báo có tinh thần văn nghệ lành mạnh, mang màu sắc địa phương với mục đích làm sống dậy sinh khí của đất Gia Định xưa. Ngoài ra, ông cùng các đồng nghiệp thành lập Nhà xuất bản Bến Nghé, chuyên xuất bản các tác phẩm văn chương mang hương sắc Đồng Nai, Bến Nghé…” (6)
Du Tử Lê,
(Kỳ sau tiếp)
_____________
Chú thích:
(1)Nhà văn Nguyễn Đông Ngạc sinh ngày 10 tháng 9 năm 1939, mất ngày 21 tháng 2 năm 1966 tại Montreal, Canada.
(2) Tuyển tập “Những truyện ngắn hay nhất của quê hương ta” do nhà Sóng ấn hành năm tại Saigon, 1974 - - Với chân dung 45 tác giả do nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh thực hiện. Sau 1975, nhà xuất bản N.A. ở Pháp, in lại tuyển tập này, chẳng những đã không xin phép mà còn tự ý cho thêm hai tác giả mới vào tuyển tập. Khi biết được, nhà văn Nguyễn Đông Ngạc đã không dấu được thất vọng và bất mãn trước việc làm của nhà xuất bản này.
(3) Nhà thơ Nguyễn Ngu Í tên thật Nguyễn Hữu Ngư, sinh năm 1921, mất năm 1979. Một số nhân vật cùng thời với họ Nguyễn đã ghi nhận về ông, như Giáo sư Trần Văn Khê (một trong những người bạn của Nguyễn Ngu Í), viết: “Anh Ngư viết văn Pháp rất hay, nhưng anh yêu tiếng Việt, anh lại muốn cho người Việt ai cũng đọc được sách báo nên tham gia rất tích cực phong trào xoá nạn mù chữ. Nguyễn Ngu Í còn sáng tạo ra cách viết chữ quốc ngữ sao cho hợp lý hơn...” Nhà biên khảo Nguyễn Hiến Lê thì kể: “Anh (Nguyễn Ngu Í) căm phẫn xã hội, căm phẫn thời đại, căm phẫn mọi người. Anh có nhiều lý tưởng, nuôi nhiều mộng cao đẹp mà gặp toàn những điều bất như ý, cứ phải cố nén xuống và sức nén càng mạnh thì sức bùng ra cũng càng mạnh... Ông là một cuộc đời đau khổ nhất và cũng đặc biệt nhất trong giới văn nghệ sĩ hiện đại”. Còn theo nhà văn Sơn Nam thì: “…Nguyễn Ngu Í là một nhà văn nổi tiếng yêu nghề và yêu nước, luôn xót xa vì chuyện đất nước chia đôi. Dường như cả một đời dạy học và hoạt động báo chí ở Sài Gòn, Nguyễn Ngu Í lúc nào cũng trong trạng thái nửa tỉnh nửa điên.”…
(4), (6) Nđd.
(5) Sau 1975, ông ngưng cầm bút vì bệnh nặng. Tháng 10 năm 1985, ông được gia đình bảo lãnh sang Mỹ chữa bệnh. Ngày 7 tháng 3 năm 1987, ông từ trần tại Rancho Cordova, Sacramento, California, vì bệnh cao huyết áp, thọ 74 tuổi. Ông được an táng ngày 14 tháng 3 năm 1987 tại nghĩa trang Sunset Lawn. Vợ ông, bà Dương Thị Thiệt, qua đời ngày 9 tháng 10 năm 1988 cùng nơi với ông. (Theo Wikipedia-Mở)