VRNs (04.12.2014) – Sài Gòn – Mấy ngày qua, báo lề dân và báo nhà nước dấy lên vụ Hồ Duy Hải (SN 1985) bị kết tội tử hình do giết hai nữ nhân viên Bưu điện Cầu Voi, huyện Thủ Thừa, Long An vào ngày 13.01.2008, được cho là oan sai, có nhiều chứng cứ, tang chứng, vật chứng chưa được điều tra xác minh làm rõ, cũng như kết luận điều tra và bản cáo trạng có dấu hiệu sai phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự.
Điều này càng thể hiện rõ hơn trong bài bào chữa cho bị cáo Hồ Duy Hải của Luật sư Nguyễn Văn Đạt trong phiên tòa sơ thẩm vào ngày 28.11.2008 và trong phiên tòa phúc thẩm vào ngày 28.04.2009.
Trong bài bào chữa, Ls Đạt khẳng định, những bằng chứng cơ bản để kết tội Hồ Duy Hải phạm tội giết người như, dấu vân tay -“không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên chỉ bản của Hồ Duy Hải”, theo Bản kết luận giám định số 158/KL-PC21 ngày 11/4/2008 của Phòng kỹ thuật hình sự tỉnh Long An; Hay các tang vật như con dao và cái thớt bị tiêu hủy và sau đó cơ quan cảnh sát điều tra sai dân quân ra chợ mua về để làm tang chứng; Hoặc vỏ dao màu vàng, cái ghế, đôi dép xốp màu trắng, tóc, dấu vết máu… chưa được Cơ quan Cảnh sát điều tra làm rõ. Thậm chí, các cơ quan chức năng đã để các ‘dấu vết máu’ thu được ở hiện trường kéo dài hơn 5 tháng (13.01.2008 – 14.05.2008) mới đem đi giám định khiến cho Phân viện KHHS tại TP.HCM của Tổng cục CS phải kết luận rằng, “mẫu dấu vết ghi thu ở ngoài cửa nhà sau và trong nhà vệ sinh của Bưu cục Cầu Voi là máu người. Nhưng không xác định được nhóm máu do mẫu đã bị phân hủy”. Tức là các dấu vết máu người này thuộc nhóm máu nào, của ai vẫn chưa được xác định. Hoặc tang vật là ‘tóc’ được thu giữ tại hiện trường cũng không được mang đi giám định ADN.
Bà Nguyễn Thị Loan mẹ Hồ Duy Hả
Kết luận điều tra và cáo trạng cho rằng, động cơ Hồ Duy Hải sát hại cô Hồng và cô Vân -nếu có- để cướp đoạt tài sản. Thế nhưng, trong bài bào chữa, Ls Đạt đưa ra những lập luận và nhận định, chưa đủ chứng cớ để xác định hung thủ có động cơ cướp tài sản. Do đó, Ls Đạt yêu cầu các cơ quan chứng năng cần phải xác minh làm rõ động cơ giết người này. Tuy nhiên, Ls Đạt cũng nhấn mạnh: “Phải chăng các hành vi lấy một ít tài sản chỉ để đánh lạc hướng điều tra???”.
Cũng trong bài bào chữa, Ls Đạt đưa ra những điểm khác nhau và mâu thuẫn giữa kết luận điều tra và cáo trạng hay trong chính nội dung cáo trạng, cũng như những kết luận không đúng với chứng cư có trong vụ án.
Qua quá trình nghiên cứu vụ án thì Ls Đạt khẳng định, vụ án có nhiều sai phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự như là: biên bản bị sửa chữa nghiêm trọng mà không có chữ ký xác nhận của “bị can và Điều tra viên” được quy định khoản 2 Điều 132 BLTTHS; Hoặc Hồ Duy Hải bị bắt tạm giam ba ngày (kể từ 20 giờ ngày 25/3/2008 đến 20giờ ngày 28/3/2008) nhưng không có lệnh tạm giữ…
Xin được nhắc lại, hai cô nhân viên Bưu cục Cầu Voi bị giết hại vào khoảng chiều tối ngày 13.01.2008. Một ngày sau đó vào ngày 14.01, Phòng kỹ thuật hình sự tỉnh Long An khám nghiệm hiện trường. Sau đó, theo thông tin báo chí, có 23 đối tượng bị triệu tập, tạm giữ, nhưng không lưu lại hồ sơ. Hơn hai tháng sau, vào ngày 21.03, Hồ Duy Hải bị bắt tạm giam. Vào ngày 07.04.2008, Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Long An mới trưng cầu giám định. Đặc biệt, trong vụ án này Hải không bị bắt quả tang mà chỉ bị bắt sau hơn 2 tháng mà không có nguyên nhân liên quan, vụ án không có nhân chứng nào nhìn thấy.
Sau đây VRNs xin được trích dẫn bài bào chữa của Ls Nguyễn Văn Đạt cho bị cáo Hồ Duy Hải trong phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Nguồn tư liệu được lấy trên facebook Kenji Tonoko.
Pv.VRNs
…………….
Ý KIẾN CỦA LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN ĐẠT BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO HỒ DUY HẢI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM
I- VỀ TỘI DANH GIẾT NGƯỜI
1) Xác định giờ chết của các nạn nhân:
Trong toàn bộ hồ sơ vụ án, chúng tôi không tìm thấy bất cứ chứng cứ nào xác định thời gian chết của 2 nạn nhân Vân và Hồng. Việc xác định thời gian chết này rất quan trọng để có thể xác định lời khai nhận tội của bị cáo có phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án hay không? 2 nạn nhân chết giờ nào? Có phải vào thời điểm 9 giờ – 9giờ30 tối như lời khai của bị cáo không? Nạn nhân nào chết trước? Có phải như lời khai của bị cáo rằng giết nạn nhân Hồng trước rồi mới giết nạn nhân Vân sau hay không? Thiếu chứng cứ này thì chưa đủ cơ sở kết tội bị cáo. Chúng tôi có tự tìm kiếm và có được 2 giấy chứng tử số 02 và số 03 cùng quyển số 1, cùng do UBND Phường Tân Khánh, xã Tân An cấp cho 2 nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng và Nguyễn Thị Thu Vân cùng ngày 22/1/2008 thì cả 2 giấy chứng tử này đều bỏ trống giờ, phút chết của 2 nạn nhân.
2) Dấu vân tay
Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường (BL 44, 45, 46, 47) “Trên kính (cửa vào buồng ngủ) có dấu vết đường vân… ở mặt trong của kính trên cánh cửa (buồng vệ sinh) có 1 số dấu vết đường vân. Trên labô rửa có một dấu vết đường vân ở trên tay nắm mở vòi nước…”. Và cơ quan chức năng đã “thu được một số dấu vết đường vân”. Thế nhưng, tại BL 53 Bản kết luận giám định số 158/KL-PC21 ngày 11/4/2008 của Phòng kỹ thuật hình sự tỉnh Long An thì “các dấu vết vân tay thu được tại hiện trường vụ án, xảy ra ngày 14/1/2008, … không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên chỉ bản của Hồ Duy Hải“.
Như vậy, lời nhận tội của bị cáo về việc đi vào buồng ngủ của Hồng, ra nhà vệ ainh và quan trọng là mở vòi nước lavabô nhà vệ sinh để rửa dao, rửa tay, rửa quần áo… không phù hợp với chứng cứ quan trọng của vụ án là kết luận giám định kể trên. Lời nhận tội của bị cáo trong trường hợp này không thể được xem là chứng cứ để kết tội bị cáo.
Nếu các dấu vân tay này không phải của Hải thì của ai? Cơ quan điều tra chưa làm rõ, chứng minh cụ thể, mà theo chúng tôi, chứng cứ này có thể xác minh, làm rõ được từ tàng thư căn cước.
3) Về tang vật của vụ án: CON DAO
Theo Bản giám định pháp y số 21/PY.08 và 22/PX.08 ngày 17/1/2008 của Phòng Giám định pháp y BV đa khoa Long An (BL 60 và 61) thì nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng và Nguyễn Thị Thu Vân đều tử vong do “bị vết thương hở làm đứt ngay vùng cổ phía trước gây choáng chấn thương, mất máu cấp”. Và tại văn bản số 37/GT.PX08 ngày 7/4/2008 của Phòng Giám định Pháp y Bệnh viện Đa khoa Long An (BL 63) v/v trả lời giải trình dấu vết trên cơ thể nạn nhân đã xác định: “Cả 2 nạn nhân đều bị vết thương hở, có bờ mép sắc gọn làm cắt đứt phần cổ trước… Tất cả những điều đó làm cho chúng ta suy nghĩ là vật sắc bén“.
Nhưng vật sắc bén ấy là gì? Có phải là con dao như lời nhận tội của bị cáo Hồ Duy Hải hay không? Có phải là “con dao mà bị can sử dụng trong lúc gây án có đặc điểm… phù hợp với các lời khai của anh Nguyễn Văn Thu – Nguyễn Văn Vàng – Nguyễn Tuấn Ngọc – Võ Văn Hùng là những người phát hiện con dao mà bị can sử dụng gây giết chết 2 nạn nhân” như Cáo trạng kết luận (BL 523) hay không? Thưa không. Tất cả các lời khai tại BL (132, 133, 134, 142, 144, 147) là lời khai của Hồ Duy Hải về các vấn đề khác, BL 226, 228, 229, 231, 232, 235. 242, 243, 244, 245, 246, 247, 248, 249 mà Cáo trạng nêu ra cho rằng phù hợp hoàn toàn không có bất kỳ lời khai nào của các anh này rằng đã phát hiện con dao và con dao ấy đã được bị can sử dụng gây giết chết 2 nạn nhân như Cáo trạng quy kết. Quy kết này là suy diễn, chủ quan, không dựa vào chứng cứ nào cả. Sự thực ở đây là các anh này (Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Tuấn Ngọc, Võ Văn Hồng) chỉ có lời khai là phát hiện con dao khi dọn dẹp hiện trường. Có báo cho Ông Sơn Công An, nhưng không thu giữ lại mà đem đốt đi và sau đó có lẽ là người mua ve chai đã lượm cái lưỡi dao đi mất.
Như vậy, câu hỏi đặt ra là có phải 2 nạn nhân bị giết bằng dao như lời nhận tội của bị cáo hay không? Và con dao ấy có phải là con dao được các anh dân phòng phát hiện ra hay không? Vì lẽ kết luận giám định chỉ chỉ ra là vật sắc bén, còn các anh này chỉ khai phát hiện con dao. Còn việc xem lời nhận tội của bị cáo rằng bị can sử dụng con dao để gây án và con dao ấy chính là con dao mà các anh dân phòng phát hiện là suy diễn và không phù hợp. Sau này, cơ quan điều tra có tổ chức nhận dạng con dao, nhưng như chúng tôi trình bày ở phần sau, các Biên bản nhận dạng này vi phạm thủ tục tố tụng nên không thể được xem là chứng cứ. Hơn nữa, nếu có cũng chỉ là chứng cứ là phù hợp về con dao tức loại dao, kích thước con dao, vị trí phát hiện con dao chứ không phải tình tiết sử dụng con dao để cắt cổ 2 nạn nhân. Xin nhắc lại không có bất cứ chứng cứ nào xác định hung thủ có sử dụng dao hay không? và nếu có thì dao nào?, có phải con dao được các nhân chứng phát hiện hay không?
Chúng tôi cũng xin lưu ý, theo Biên bản khám nghiệm hiện trường thì cơ quan chức năng đã rất cẩn thận, xem xét rất kỹ từng đồ vật, dấu vết, đặc biệt là khu vực cầu thang, chung quanh nơi có 2 thi thể nạn nhân, kể cả khu vực trong gầm cầu thang. Và đã phát hiện rất nhiều đồ vật như hạt cơm, bún phơi khô, bịch cơm khô, bộ phận bếp dầu, thau nhựa, tô, chén, dĩa, rổ nhựa, bình nước…………, thùng mì gói, … Và đã kết luận “Chúng tôi không phát hiện thấy dấu vết đồ vật nào khác có liên quan đến vụ việc”. Như vậy, lời khai phát hiện con dao cũng là không phù hợp với kết luận khám nghiệm hiện trường.
Chưa kể những lời khai và nhận dạng này có dấu hiệu vi phạm tố tụng nên không thể được xem là chứng cứ như chúng tôi sẽ phân tích ở phần sau.
4) Vỏ dao màu vàng
Liên quan đến con dao, có chi tiết quan trọng mà các anh dân phòng khi dọn dẹp hiện trường cũng tìm thấy cùng lúc với con dao đó là vỏ dao màu vàng. Nhưng vỏ dao này có kích thước nhỏ hơn nhiều so với con dao bị phát hiện. Vỏ dao này liên quan gì đến vụ án cũng chưa được làm rõ. Và vỏ dao màu vàng, theo nhân chứng Nguyễn Văn Váng thì vỏ dao này được phát hiện dưới nền xi măng cạnh hàng rào trước cửa khu nhà vệ sinh (BL 243); còn nhân chứng Võ Văn Hùng thì khai: anh Công an ấp 7 phát hiện vỏ dao này dưới đáy tủ (BL 234). Và nhân chứng Nguyễn Văn Thu thì lại khẳng định: “Chúng tôi phát hiện vỏ dao… nằm dưới kẹt trong hông tủ để gần 2 xác nạn nhân” (BL 226). Xin lưu ý là theo sơ đồ hiện trường khu vực (BL 48) thì xác 2 nạn nhân được phát hiện ở khu vực cầu thanh bên cạnh nhà bếp, hoàn toàn không có cái tủ nào. Như vậy để thấy ngay cả các nhân chứng cũng không có những lời khai thống nhất và đáng tin cậy.
5) Thớt gỗ
Cũng vậy, về tấm thớt gỗ mà cáo trạng dựa vào lời khai của bị cáo để xác định bị cáo Hải đã cầm để đánh Hồng là suy diễn và không phù hợp khách quan.
(i) Thứ nhất, tại Biên bản khám nghiệm hiện trường BL số 46 có ghi nhận một tấm thớt gỗ. Nhưng cơ quan chức năng đã không thu giữ để giám định nên không có cơ sở xác định.
(ii) Thứ hai, theo Biên bản giám định pháp y (BL 60 và 61) và Công văn số 37/GT.PY.08 (BL 63) trả lời giải trình dấu vết trên cơ thể nạn nhân thì: “vùng đầu, mặt có nhiều vết bầm tụ máu diện rộng, đồng thời có những vết rách da bờ mép sắc gọn. Điều đó chứng tỏ: vùng đầu, mặt của nạn nhân đã bị va đập vào vật vừa có bờ mép hình thù cứng, trơn nhẵn, đồng thời ở đó có các vật cứng sắc gọn và bị va đập nhiều lần”. Như vậy, giải trình này của Phòng giám định pháp y không phù hợp với kết luận của Cáo trạng rằng bị cáo đã dùng tấm thớt gỗ để gây án. Vì thiếu chi tiết “ở đó có các vật cứng sắc gọn“.
(iii) Thứ ba, theo Biên bản khám nghiệm tử thi (BL 56) và Bản giám định pháp y (BL 60) thì nạn nhan Hồng bị “Dập da đầu vùng đỉnh 6cm x 4cm, vùng đỉnh phải kích thước 4,5cm x 3cm).
Mặt có vết rách đa sắc gọn… mí mắt trên cạnh khóe mắt ngoài mắt trái có vết rách da… Cạnh đầu lông mày trái có vết rách da sắc gọn… rách da vùng lông mày phải…
Mắt: … mắt trái sưng nề thâm quầng
Miệng: dập môi trên, vùng cằm bên trái có vết rách da, bờ mép sắc gọn… xung quanh vết thương có nhiều vết trầy sướt da không rõ hình”.
Như vậy, với tấm thớt gỗ và tư thế gây án như cáo trạng kết luận là: Hải thấy cái thớt gỗ tròn ở cạnh đó liền cầm lấy bằng 2 tay đập mạnh vào vùng đầu, vào mặt cho đến khi Hồng bị ngất”. (BL 520) và Kết luận điều tra (BL 386) thì kết luận: Hải… cầm 2 tay giơ cao đập từ trên xuống dưới vào vùng đầu, mặt Hồng 2 cái…” không phù hợp với dấu vết trên thi thể nạn nhân. Vì lẽ ở đây, chưa xác định rõ 2 tay giơ cao cái thớt gỗ để đập xuống đầu và mặt nạn nhân 2 cái là giơ cao mặt thớt hay phần sống của cái thớt? Chỉ đập 2 cái thì dù có bằng mặt thớt hay phần sống thớt trong khi nạn nhân nằm cũng không thể gây ra các dấu vết vừa dập da đầu vùng đỉnh, lại tụ máu cơ thái dương trái, gây ra các vết rách da sắc gọn ở mắt, ở đầu lông mày, ở cằm được.
(iv) Cũng vậy, theo kết luận điều tra (BL 386) thì cái thớt gỗ này có hình tròn, đường kính 27cm, độ cao 4cm.
Như vậy, nếu đập mạnh thớt gỗ này vào mặt nạn nhân đến độ rách da mí mắt, rách da lông mày, tụ máu vùng trán, dập môi trên, rách da vùng cằm… mà cái mũi lại không bị thương tích gì là vô lý, không phù hợp.
Hơn nữa, tôi đề nghị HĐXX xem xét lại bản ảnh chụp nạn nhân (BL ……………) sẽ thấy rõ các vết sắc gọn ở dưới cằm và trên trán nạn nhân.
6) Về cái ghế mà Cáo trạng kết luận Hải 2 tay cầm chân ghế đưa lên cao và đập thật mạnh xuống đầu Vân làm Vân té ngã xuống nền gạch nằm bất tỉnh. Về chứng cứ này có những điểm cần lưu ý như sau:
(i) Một là, đến nay, chưa có chứng cứ nào xác định vết thương tụ máu dưới da đầu vùng đỉnh, kích thước 6cm x 3cm của nạn nhân Vân là do bị tác động bởi vật gì? Có phải là cái ghế hay không? Và nếu là cái ghế thì là phần nệm ghế hay phần sắt lưng ghế? Theo bản ảnh thực nghiệm điều tra thì bị cáo dùng phần nệm ghế.
Vì lẽ, theo BL 63, Công văn số 37/GT.PY.08 trả lời giải trình dấu vết trên cơ thể nạn nhân thì “Da đầu nạn nhân Nguyễn Thị Thu Vân không bị rách, chỉ bị tụ máu dưới da đầu vùng đỉnh, kích thước khá rộng (6cm x 3cm) xương hộp sọ nguyên vẹn. Điều đó chứng tỏ: đỉnh đầu của nạn nhân bị va đập vào một vật có bề mặt lớn và vật đó không quá cứng (chỉ tổn thương ở mức độ nhẹ), còn nếu vật đó cứng thì lực tác động phải nhẹ, mới không gây rách da đầu và vỡ xương hộp sọ”. Như vậy, chưa có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của bị cáo là dùng ghế đập lên đầu nạn nhân Vân.
(ii) Hai là, theo Cáo trạng và KLĐT thì sau cú đập vào đầu này, nạn nhân Vân ngã xuống bất tỉnh. Tình tiết này cũng không có chứng cứ khách quan nào xác định. Trái lại theo kết luận giám định pháp y số 22/PY.08 thì hoàn toàn không xác định nạn nhân Vân bị choáng do vết đập trên đỉnh đầu này. Giám định chỉ xác định “phát hiện tụ máu dưới da đầu vùng đỉnh, mức độ nhẹ”. Khác hoàn toàn với Giám định pháp y của nạn nhân Hồng (BL 60) rằng nạn nhân Hồng có thể bị choáng do máu tụ dưới da đầu và vùng cổ.
(iii) Ngay cả vị trí ghế, cũng hoàn toàn theo suy diễn chủ quan, và suy diễn này là không phù hợp:
+ Tâm lý tội phạm cho thấy không thể sau khi đập đầu nạn nhân Vân ở phòng khách, lại mang ghế đi ngược về khu nhà bếp, đặt bên cạnh xác của Hồng, rồi mới đi trở lại nhà khách để kéo xác Vân…
+ Ghế này, theo BBKNHT (BL 46) thì trên mặt nệm ghế vẫn còn dính những hạt cơm khô. Điều này là không phù hợp khách quan. Bởi lẽ, nếu ghế này đã ở vị trí nhà bếp từ trước, nên khi xô xát với Hồng, hạt cơm khô rơi vãi lên nệm ghế thì không thể kết luận là hung thủ dùng ghế đập đầu Vân. Vì lẽ, nếu đập bằng ghế thì hạt cơm khô đã rơi ra. Ngược lại, nếu sau khi đập đầu Vân, hung thủ mang ghế vào khu vực nhà bếp thì sao các hạt cơm khô (rơi ra khi xô xát với Hồng) lại có trên nệm ghế được?
Chúng tôi cũng đã tham khảo một chuyên gia trong lĩnh vực y khoa thì được khẳng định: nếu vết thương được kết luận là “mức độ nhẹ” thì không thể choáng, ngất được. Còn giả sử có choáng, ngất và ngã ngửa như kết luận Cáo trạng nêu thì phải bị chấn thương nặng vùng đầu.
Như vậy, kết luận nạn nhân Vân bị choáng do bị đập vào đầu là không phù hợp chứng cứ giám định pháp y của vụ án.
7) Về đôi dép xốp màu trắng: Cơ quan chức năng khám nghiệm hiện trường có xác định thu giữ “một đôi dép xốp màu trắng” (BL 47), nhưng hoàn toàn không giám định mà kết luận rằng đôi dép xốp màu trắng ấy là của Nguyễn Thị Thu Vân (BL 384) là không phù hợp.
Hồ sơ vụ án có thể hiện lời khai của nhân chứng Lê Thị Thu Hiếu (BL 197) về đôi dép xốp. Nhưng là đôi dép xốp 2 quai màu trắng chứ không phải đôi dép màu trắng. Theo chúng tôi, chỉ lời khai này thì không đủ cơ sở để xác định đôi dép xốp màu trắng thu được tại hiện trường là của Nguyễn Thị Thu Vân. Vậy đôi dép này của ai chưa được làm rõ. Hiện tang vật vẫn còn được lưu giữ nên việc làm rõ là cần thiết.
8) Tóc
Về một số sợi tóc dính trong lọc rác của bồn rửa mà nếu xem trên bản ảnh (BL ……………….) thì có thể thấy rất rõ được cơ quan chức năng thu giữ tại hiện trường (BL 47), sau đó được kết luận giám định số 3126/C21B ngày 16/4/2008 của phân viện KHHS tại TP.HCM Tổng cục Cảnh sát (BL 69) là khả năng bị đứt do tác động ngoại lực. Như vậy, số sợi tóc này bị đứt là do đâu?
Chúng tôi có tìm thấy sự quan tâm của Cơ quan điều tra (tại BL 117) Biên bản hỏi cung bị can ngày 11/7/2008, khi hỏi bị cáo: “Lúc cắt cổ bị can có cắt tóc không?”. Nhưng rất tiếc sau đó, không có câu trả lời của bị cáo về câu hỏi này. Đồng thời, chúng tôi cũng không tìm thấy bất cứ chứng cứ nào khác xác định được tình tiết này của vụ án. Câu hỏi này vẫn chưa được trả lời.
9) Dấu vết máu
Cũng vậy, về các dấu vết thu được ở cửa nhà sau và nhà vệ sinh của Bưu cục Cầu Voi, rất tiếc cơ quan chức năng đã để các dấu vết này kéo dài hơn 5 tháng (tức đến ngày 14/5/2008) mới đem đi giám định khiến cho Phân viện KHHS tại TP.HCM của Tổng cục CS phải kết luận (BL 68) rằng: Mẫu dấu vết ghi thu ở ngoài cửa nhà sau và trong nhà vệ sinh của Bưu cục Cầu Voi là máu người. Nhưng không xác định được nhóm máu do mẫu đã bị phân hủy”. Như vậy, dấu vết máu người này thuộc nhóm máu nào, của ai vẫn chưa được xác định.
10) Về mẫu tàn than tro mà Cơ quan CSĐT đã phát hiện và thu giữ từ lời khai và kết luận của Cáo trạng “bị can sợ bị phát hiện mới lấy quần áo đã mặc lúc gây án và 1 sợi dây nịt bằng da ra phía sau vườn nhà Chị Len (dì bị can) đốt để phi tang (BL 54). Và Cáo trạng cho rằng phù hợp với Bản giám định số 3200/C21B ngày 8/5/2008 của Viện KHHS rằng “Số tro than trên có thành phần vải và nhựa poliester…”. Kết luận này là suy diễn và không phù hợp. Vì lẽ, theo kết luận giám định số 3200/C21B (BL 70) thì đúng là “trong mẫu tàn than tro gửi đến giám định có thành phần vải và nhựa Poliester”. Nhưng kết luận giám định cũng nêu rõ “không đủ yếu tố kết luận có thành phần các nguyên liệu làm ra dây thắt lưng, quần áo và sim card”.
Như vậy, lời khai của Bị cáo Hải về việc đốt quần áo và dây nịt với số tàn tro thu và gởi đi giám định là không phù hợp với chứng cứ kết luận giám định nên không được coi là chứng cứ.
Cũng xin lưu ý, theo KLĐT (BL 387) thì “sau khi gây án khoản 1 tuần, sợ bị phát hiện, Hồ Duy Hải lấy số quần áo mặc gây án và dây thắt lưng đem ra vườn phía sau nhà bà Nguyễn Thị Len (dì ruột của Hải) đốt”. Nhưng tại Quyết định trưng cầu giám định ngày 27/3/2008 (số 01 của CQĐT – BL 67) thì số tro, than gởi đi giám định lại là thu “tại phía sau nhà của Hải“. Và việc thu này là vào ngày 21/3/2008. Như vậy, hơn 3 tháng sau mới thu kể từ ngày được xem là Hải đốt. Và thu ở được vị trí khác với vị trí xác định là Hải đốt.
11) Đồ vật khác
Ngoài ra, tại Biên bản khám nghiệm hiện trường, các nhân chứng là dân quân dọn dẹp hiện trường có nêu ra các đồ vật khác liên quan, nhưng chưa được cơ quan chức năng xem xét có liên quan vụ án hay không và có ý nghĩa gì đối với việc xác định sự thật vụ án, đó là một miếng mút xốp màu trắng và vài mảnh mút xốp đã bị cắt vụn trên mặt bàn và rải rác vài mảnh dưới nền nhà (BL 45), một cái dũa móng tay (BL 47), vỏ bọc dao bằng nhựa màu vàng (BL 234, 226) mà chúng tôi đã nêu ở trên.
Liên quan đến các đồ vậy này, chúng tôi cũng xin lưu ý là theo lời khai của nhân chứng Lê Thị Thu Hiếu (BL 198) người được xem là ở lại hiện trường với 2 nạn nhân đến 17 giờ ngày 13/1/2008 (BL 197) khi được hỏi đã trả lời: “xác định trên bàn (trước khi nhân chứng ra về) không có loại xốp màu trắng nào bỏ rải rác trên bàn kể cả từ trước đến nay. Tôi cũng không thấy loại xốp này bao giờ (BL 197). Như vậy những mút xốp này ở đâu có? Có ý nghĩa gì với vụ án chưa được làm rõ.