logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 20/12/2014 lúc 09:49:37(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
UserPostedImage
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn trên dốc Lombard – San Francisco trong chuyến đi Mỹ năm 2009.
Photo courtesy of blog Bùi Ngọc Tấn

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 vừa qua đời hôm 16 tháng 12 vừa qua để lại cho người yêu mến văn chương cũng như tư cách của ông một sự thương tiếc không kể hết.

“Chuyện kể năm 2000”
Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934. Quê nhà văn ở làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Ông bắt đầu viết văn viết báo từ 1954. Năm 1968 Bùi Ngọc Tấn bị tập trung cải tạo 5 năm trong vụ án Xét lại chống đảng. Khi bị bắt giữ, hơn một ngàn trang bản thảo của ông cũng bị tịch thu.

Chuyện Kể năm 2000 viết về một người tù mang tên Tuấn mô tả lại cách mà chính quyền Việt Nam trấn áp trí thức trong đó chính ông là nạn nhân viết lại với tư cách một nhân chứng.

"Chuyện kể năm 2000" được nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành vào tháng Hai năm 2000 thì ngày 16 tháng Ba bộ Văn hóa -Thông tin đã ký quyết định đình chỉ, thu hồi và tiêu hủy.

Nhân vật có tên Nguyễn Văn Tuấn có thể là tác giả mà cũng có thể là của tất cả mọi tù nhân bị bắt, bị cải tạo vì các tội chống nhà nước, gián điệp, phản động…nói chung là không chấp nhận cái nhà nước muôn phần xinh đẹp và dân chủ này. Tuấn mang khuôn mặt của những rách nát tả tơi từ trong tù cho tới khi ra khỏi nhà tù. Anh ta là nghệ sĩ không được ngẩng cổ lên hót như chim mà bị buộc phải cúi đầu ho khan như một gã ho lao. Tuấn cũng là nhà văn nhà báo ngay cả nhà thơ…những ngòi viết không còn được cung cấp mực nên phải dùng máu của mình để viết trên những trang giấy mỏng tang giấu kín trong trại giam để một ngày nào đó cơ may cho chế độ đã đến và chúng phát giác, xé bỏ trấn áp ngòi viết ây bằng chính máu của anh ta.

Chuyện kể năm 2000 với những trang giấy trắng không có chữ mà chỉ có hình ảnh. Hình ảnh hiện lên như bóng ma, như ám ảnh của chế độ đè nặng lên tâm thức Việt Nam. Năm năm trong tù không dài nhưng qua ngòi bút Bùi Ngọc Tấn đã khiến nhân vật thành hình tượng và những hình tượng tưởng không còn là con người ấy vẫn cào cấu không ngừng đòi lại cái “chứng minh làm người” mà chế độ cố tình tịch thu, xé bỏ.
Chế độ không muốn cách mạng mặc dù chúng lớn mạnh từ cách mạng. Chế độ không muốn ai trở thành nổi bật hơn nó vì quyền lực không cho phép sự kính trọng hiện hữu trong lòng người dân. Kính trọng phải bị thủ tiêu và sự sợ hãi luôn là kim chỉ nam trong mọi lĩnh vực.

Chuyện kể năm 2000 không biết sợ hãi và vì vậy nó bị cấm in, cấm xuất bản. Nhưng cả thế giới vẫn biết tới nó và ca ngợi và ấp ủ và nghiền ngẫm nó. Nó được dịch nhiều thứ tiếng và được các chủng tộc khác với Việt Nam chia sẻ.

Nó được so sánh với Dostoevsky, với Solzhenitsyn và nhiều cây bút khác viết về nhà tù dưới chế độ cộng sản. Nhưng nếu để ý thì người tù ấy, thân phận ấy không bao giờ được ra khỏi nhà giam vì phía sau cánh cửa trại giam là cuộc sống bế tắc, đàn áp, đè nặng lên mỗi con người, nhất là con người vẫn còn mang số tù trong lý lịch.
UserPostedImage
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn

Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nói về nhận xét của ông đối với Chuyện kể năm 2000:

“Thứ nhất đây là một cuốn tiểu thuyết. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn viết tiểu thuyết chứ không phải tự truyện hay hồi ký mặc dầu nhân vật lấy từ chính cuộc đời của anh, 5 năm lao tù của anh nhưng là tiểu thuyết và do vậy kinh nghiệm cá nhân của Bùi Ngọc Tấn cộng với kinh nghiệm bạn tù và những kinh nghiệm quan sát của một nhà văn trong đời sống xã hội nó hun đúc lên thành hình tượng, thành nhân vật và do đó sức khái quát nó lớn hơn. Sức thuyết phục, tác động nó mạnh hơn.

Trong đám ma của ông hôm nay rất nhiều bạn bè văn chương cũng khẳng định như thế, đây là một tác phẩm có thể nói là một bước ngoặc của văn học Việt Nam. Một tác phẩm sẽ sống lâu và còn giúp cho mọi người đọc nó nhận biết thực tại đời sống xã hội Việt Nam trong 50 năm của nửa cuối thế kỷ 20.

Điều quan trọng nữa là tâm thế của Bùi Ngọc Tấn trong tác phẩm này cũng như các tác phẩm khác của anh từ khi anh trở lại văn đàn là một sự nhân hậu ấm áp. Nếu đã trải qua những năm tháng trong nhà tù khắc nghiệt như vậy mà có giọng hằn học, cay độc thì cũng là lẽ tất nhiên nhưng không, ông đã chọn nói về những sự thật đó, nói về những nỗi đau của con người, về những vấn đề xã hội nhân sinh bằng một giọng văn nhân hậu, ấm áp mà đọc vào khiến người ta xúc động và càng thấy sự chân thực toát lên và nhờ đó sự thật của đời sống của văn chương nó đạt được hiệu quả.

Thành công bởi sự trải nghiệm đau khổ
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức đọc Chuyện kể năm 2000 với một góc nhìn khác mà theo ông tiểu thuyết vẫn chưa đạt tới đỉnh cao mà đáng ra nó phải có:
“Chuyện kể năm 2000 là sự thành công bởi sự trải nghiệm đau khổ mà trong đó có rất nhiều dư vị đắng cay của bất công. Sự trải nghiệm của trường đời. Học vấn của các nhà văn của chúng ta nó ít nhưng như anh Bùi Ngọc Tấn anh ấy có trường đời và như vậy anh ấy đã bức phá hơn rất nhiều nhà văn bình thường. Anh Bùi Ngọc Tấn bằng trải nghiệm đau khổ và bất công về công lý trong chính hoàn cảnh của anh ấy không được hưởng ánh sáng công lý khi bị đem xử. Anh đã lầm lũi sống như thế và khi ra tù anh có khả năng viết cao hơn nữa bằng cái nguyên liệu mà anh đã kiếm trong quá trình sống. Anh ấy đã hoàn toàn vượt lên cái sàn chung của hội nhà văn Việt Nam. Văn học Việt Nam chúng ta có cây có rừng mà không có cây lớn, chỉ sàn sàn giống nhau thì anh Bùi Ngọc Tấn vượt trội lên. Nhưng mà để vượt lên tầng cao của bầu trời văn học có triết học, công lý hay thần học như trong Anh em nhà Karamazov câu hỏi có Chúa hay không thì anh Bùi Ngọc Tấn cũng chưa vươn tới tầm cao ấy. Cũng giống như một loạt các nhà văn nổi tiếng của Việt Nam cũng chưa vươn tới bầu trời đấy

Tôi muốn nói tới tinh thần công lý mà anh ấy bị oan uổng và anh ấy trải qua trong những đầm đìa khổ sở, tù đày thì việc của ảnh là hoàn toàn tự sự. Mặc dù anh ấy nhìn thâm thúy nhưng vẫn trong nhà tù nó ở khác thân thể anh ấy. Theo tôi anh không nhân cái việc thiếu công lý của anh ấy ra toàn xã hội.”

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, với tính điềm đạm cố hữu, trong một lần trả lời phỏng vấn của chúng tôi ông cho biết:

“Câu chuyện nó báo hiệu cái tình trạng mất dân chủ, tình trạng đàn áp, tình trạng bất công với những người lương thiện kiểu như tôi. Quyển đó nó chỉ nói một cái tiền đề về tình trạng mất dân chủ, tình trạng ức hiếp quần chúng hoặc ở dạng này dạng khác.
Tôi cho rằng trong tiểu thuyết của tôi tôi đã đề cập những vấn đề cơ bản để hiểu được cái trật tự xã hội này. Trong văn chương cái chủ yếu thân phận con người nó khác với báo chí. Cũng như thân phận của cô Kiều Nguyễn Du đã nói một gốc gác như thế để cho bây giờ chúng ta thương cảm gốc gác của nàng.

Tôi tiếc mình già rồi, bệnh tật lại lạc hậu nữa. Vài năm nay tôi không đi đâu cả cho nên nhiều lúc cũng nổi nóng giá mà thế này giá mà thế kia...thế hệ chúng tôi vốn còn cái gì thì viết cái đó thôi.”

Chuyện kể năm 2000 tuy sáng giá và nổi tiếng nhưng những người biết và cận kề hay có dịp đến với tác giả của nó sẽ ngạc nhiên hơn vì tính cách của ông, một tính cách nhân hậu, bao dung và thuyết phục người khác bằng trái tim của ông. Nữ diễn viên điện ảnh, đạo diễn sân khấu Kim Chi cho biết sự yêu mến của bà đối với nhà văn Bùi Ngọc Tấn:

“Chuyện kể năm 2000 anh đã mở mắt cho nhiều người nhìn thấy biết sự thật. Với giọng văn tưng tửng, không chửi rủa mà anh cứ kể và người đọc cứ cảm nhận. Tôi đọc đi đọc lại Chuyện kể năm 2000 hai ba lần.

Mới giây phút đầu tiên tôi làm quen vợ chồng anh nhưng mà có cảm giác thân thiết tự bao giờ, rất là lạ. Tôi không nghĩ là năm nay anh lại ra đi cho nên đối với tôi là một hụt hẫng mất mát. Chúng ta mất một con người rất tâm huyết, tài năng một người dành cả quãng đời còn lại cho công cuộc đòi dân chủ. Cả anh cả chị đều hiền lành, dịu dàng chân tình và ấm áp. Trong ánh nhìn mình đã thấy thân thiện rồi.”

Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cùng một chia sẻ:

“Kể từ khi tôi quen biết và trở nên thân thiết như một người em một người bạn vong niên thì tôi thấy anh Tấn một nhà văn hết sức nhân hậu, nồng hậu, ấm áp biết hài hước mặc dù luôn luôn đau đáu về cuộc sống, văn chương.

Anh thường ngồi với nhau mà nói về điều đó mà người ta không thấy anh dùng giọng cha chú, bề trên hay gì cả. Rất nhiều người trẻ cả độc giả lẫn người viết trẻ đều cảm nhận ở anh Bùi Ngọc Tấn một sự hòa đồng, bình đẳng và tin cậy ngay khi được gặp anh. Tin cậy trên trang viết và tin cậy trong cuộc sống.”

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã nằm xuống nhưng tình cảm bạn đọc dành cho Chuyện kể năm 2000 và bạn văn đối với riêng ông vẫn nằm trang trọng trong tim họ. Nếu gọi ông là nhà văn lớn trong hoàn cảnh hiện nay chắc không đến nỗi quá lời. Ông lớn ở tài văn đã đành mà còn ở tư cách một kẻ sĩ nữa.
Theo RFA
phai  
#2 Đã gửi : 20/12/2014 lúc 10:02:28(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Đọc “Chuyện Kể năm 2000″

“Chuyện Kể Năm 2000″ của Bùi Ngọc Tấn gồm 2 tập, dày khoảng 1000 trang in cỡ chữ trung bình do Nhà xuất bản Thanh Niên ở Hà nội in và xuất bản. Sách in xong nộp lưu chiếu khoảng tháng 2/2000 chưa bán ra thị trường đã bị nhà nước ra lệnh tịch thu. Nội dung cuốn sách đã được chuyển qua Liên bang Nga. Sinh viên Việt scan lại và chuyển cho độc giả Việt khắp thế giới. Ít nhất có hai nhà xuất bản, nhà xuất bản Văn Nghệ và Tự Lực ở Nam California Hoa Kỳ đã cho in thành sách. Nhà xuất bản Tự Lực cho biết một phần tiền bán sách sẽ dành cho tác giả, và khuyến khích độc giả giúp đỡ tác giả và những người đang gặp khó khăn với chính quyền trong nước vì đã tạo điều kiện cho cuốn sách ra đời.

Từ năm 1986 khi tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cởi trói văn nghệ, nhiều sách do các nhà văn trong nước viết được gởi ra hải ngoại như các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương … chưa có một cuốn nào gây dư luận sôi nổi như cuốn “Chuyện Kể Năm 2000”.

Bùi Ngọc Tấn viết chuyện ký về nhà văn Nguyễn Văn Tuấn (chính là tác giả) bị tù gần 5 năm, từ tháng 11/1968 cho đến tháng 4/1973. Tập 1 ghi lại chuyện tù từ các trại giam trại 76 ở Hải Phòng, 75 ở Hà Nội đến các trại tù Q.N, VQ. Tập 2 ghi lại những khó khăn nhà văn Nguyễn Văn Tuấn gặp phải sau khi ra tù. Những khó khăn kéo dài triền miên từ năm 1973 cho đến năm 1990. Ông bắt đầu viết khi khối Liên Xô vừa sụp đổ. Ông nghĩ đã đến lúc có thể ghi lại những lỗi lầm của thế kỷ và chiêm nghiệm của bản thân lại cho mai sau.

Ông viết: “Thập niên thứ tư (ông ra tù năm 39 tuổi): Dưới đáy. Cố ngoi lên để khỏi bị nhận chìm dưới đáy. Đấu tranh đòi hưởng công bình, đòi hưởng luật pháp. Thập niên thứ năm: chiêm nghiệm. Xác nhận thực tại mình bị tiêu diệt. Hiểu. Thập niên thứ sáu … trò chuyện với vô cùng.”

Ông trò chuyện với vô cùng qua những trang giấy trắng. Ông miệt mài viết trong 15 tháng liền, kết thúc bản trường thiên ký sự cuối năm 1991. Không ai biết tại sao tác giả ngâm bản thảo suốt 8 năm cho đến tháng 8 năm 1998 mới tìm cách cho cuốn sách ra đời một cách công khai. Có lẽ nhà văn Bùi Ngọc Tấn chờ chế độ đã làm cho cuộc đời ông bầm dập cáo chung, hay không còn chờ được nữa, hay nghĩ chế độ đã đủ cởi mở để nghe những lời ông nói.

Có thể chế độ đã đủ cởi mở hay có những khe hỡ tế nhị để cuốn sách ông qua lọt các thủ tục kiểm duyệt, nhưng sau cùng những người nắm quyền lực tối thượng vẫn còn lo sợ không cho cuốn sách ông được phổ biến. Nhưng có gì ngăn cản được thông tin trong thời đại tin học. Càng cấm nó càng được phổ biến, càng được tìm đọc. Nếu đảng cộng sản Việt Nam không ngăn được nhạc Phạm Duy đi vào quần chúng như mực trên giấy thấm học trò, thì đảng cũng không ngăn được những tư tưởng bình dị nhưng lấp lánh như ánh sao sa được chuyên chở bởi lời văn nhẹ nhàng, súc tích đầm ấm của Bùi Ngọc Tấn đến với nhân dân.

Ký sự về tù đày, nhưng tù đày chỉ là cái khung. Tác giả dùng cái khung đó để chi li đi vào phần thâm kín nhất của tâm hồn con người, trình ra những viên ngọc óng ánh cho chúng ta những giây phút thở dài nhẹ nhõm hay lo âu có khả năng làm cháy lòng ta. Cái tệ tàng, u uất, xấu xa nhất nếu được vẽ ra nguyên hình của nó cũng là một viên ngọc quí của văn học. Ai quên được triết lý nói dối và ăn cắp của Tuấn trong tù như một hình thức phản kháng: “Vào tù hắn đã học được hai điều: ăn cắp và nói dối. Không ăn cắp vẫn sống được đấy. Nhưng khỗ. Và buồn nữa. Nếu không có cái lo lắng hồi hộp của việc ăn cắp và bồng của ăn cắp được về trại thì buồn lắm, buồn không chịu nổi. Sung sướng biết bao khi mình vẫn lấy cắp và mang về trại được tất cả, vượt qua vòng kiểm soát nghiêm ngặt của các ông quản giáo. Ăn cắp với hắn còn có nghĩa phản kháng, tuy sự phản kháng đó hơi nguy hiểm. Nó dẫn tới kỷ luật, cùm xà lim, ăn cháo loãng.”

Những điều phi lý của một chế độ độc tài toàn trị văn chương thế giới đã nói nhiều. Nhưng cái phi lý nhà văn Bùi Ngọc Tấn ghi lại làm chúng ta choáng váng, nhức nhối, khó chịu. Nhà văn Nguyễn Văn Tuấn bị bắt vì đã viết cuốn sách “Những Tiếng Động Bị Nhốt” để ca ngợi những chiến sĩ thợ hàn đêm ngày nằm trườn mình trong những thùng phuy bé tí để hàn thùng xăng cho nhu cầu bộ đội Trường Sơn. Người thợ hàn nghe tiếng tí tách của ngọn hồ quang đầu đũa hàn, mình với mình, chịu đựng cam go nóng bức, tiếng động bị nhốt trong thùng không chia xẻ được với ai. Thế nhưng, ông Trần, ông Lan trong bộ máy công an cho rằng Bùi Ngọc Tấn lách chữ nghĩa để xỏ xiên đảng bóp chết tiếng nói của nhân dân.

Đầu năm 1972 sau 3 năm 8 tháng giam cầm Nguyễn Văn Tuấn được đưa từ nhà tù QN về trại giam 75 ở Hà Nội để làm thủ tục phóng thích. Ngày phóng thích, Ngọc vợ Tuấn được mời đến sở công an. Ông Lan, người công an chấp pháp từng lấy cung Nguyễn Văn Tuấn muốn nhân dịp này cho Tuấn có cơ hội nhận lỗi “với nhân dân” trước mặt những người đại diện đảng, nhất là trước mặt vợ để chứng tỏ uy quyền của đảng và thỏa mãn tự ái của ông. Trong hơn 3 năm giam cứu ông Lan không khui ra được một lỗi lầm gì của người tù Nguyễn Văn Tuấn. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn kể lại: “Hướng về Tuấn như hướng về một thính giả vô hình, ông Lan nói, trước hết anh phải xác định được những sai lầm của mình. Phải nhận thức được thiếu sót của bản thân. Chúng tôi giam giữ anh không ngoài mục đích ấy.”

Cảm thấy không có gì trắng trợn hơn, gian dối hơn, đạo đức giả hơn, đểu hơn, Tuấn buột miệng đáp: “Thưa ông, cho đến giờ này tôi chưa được biết tội lỗi của tôi. Chưa ai nói cho tôi biết tôi có tội gì.”

Người sĩ quan công an chấp pháp cười nhạt nói với vợ Tuấn, “Đấy, anh ấy cứ như thế đấy.” Sau đó Tuấn được chở trở lại về nhà tù Q.N trên chiếc xe đít vuông có 4 buồng giam của Rumani viện trợ, rồi chuyển lên trại VQ xa hơn, hắc ám hơn.
Đừng đọc Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấân như một cuốn sách tố cáo chế độ tù đày của chế độ cộng sản Việt Nam. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn không có mục đích tố cáo chế độ tù đày, ông cũng không dùng cuốn sách để tố cáo chế độ cộng sản. Cộng sản như thế nào ai cũng biết rồi. Stalin, Mao, Pol Pot, cuộc đấu tố tại miền Bắc Việt Nam của thập niên 50 … . Và tù đày: “nhất nhật tại tu thiên thu tại ngoại” đâu cũng vậy. Những khó khăn của người tù để lập lại cuộc đời ở quốc gia nào cũng có.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn dùng cái khung tù đày và những năm phấn đấu sau khi ra khỏi nhà tù để ngoi lên mà sống cho ra một con người để minh họa một bức tranh lớn của xã hội Việt nam dưới một chế độ không có tự do. Khi quyền lực thu vào tay của một số người, vừa làm công an, quan tòa và cai tù thì xã hội và con ngườiụ phải sa đọa đến tầng thấp nhất của địa ngục. Địa ngục không chỉ ở trong nhà tù, địa ngục ở mọi nơi, trong cơ quan làm việc, trong công xưởng, nơi hàng mậu dịch, trường học, trong tâm tư của người chưa bị tù hay vừa ở tù ra, nơi chỗ kín đáo vợ chồng chăn gối với nhau. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn viết: Khi con người “không còn một nơi nào đi đến thì khủng khiếp thật. Đó là địa ngục của trần gian. Ông không đặt câu hỏi cái gì cho phép cái địa ngục đó tồn tại. Nhưng ai cũng biết: vì tự do là trái cấm. Chỉ có đảng độc quyền tự do, độc quyền tuyệt đối, độc quyền hiến định. Nhưng Tuấn không mất tin tưởng vào con người, và đó là cái làm anh sống, không chọn cái chết như người tù Ngụy Như Cần. Có lần Tuấn thổ lộ với Bình, một người bạn chí thân: “Bình ơi! Lòng chúng ta có bao giờ không trong sáng. Có bao giờ chúng ta không yêu mến con người. Có bao giờ chúng ta căm ghét cuộc đời này…”

Những chiêm nghiệm của tác giả được vẽ lại bằng một lối văn nhẹ nhàng đầy ắp hình ảnh, không hờn oán. Trong suốt 1000 trang giấy, trang nào cũng là một bức tranh nhỏ mang tính sự thật phảng phất tâm hồn bao dung của tác giả, ngay cả những cảnh hung bạo nhất. Con người còn tất cả những nét đẹp trong tác phẩm của ông. Xấu chăng chỉ là cái hệ thống, cái chế độ chính trị hư hỏng làm con người đi xuống, đi xuống mà không biết mình đi xuống như ông Trần, ông Lan ông Quảng của sở công an, của một số bạn văn của tác giả trốn tránh anh vì sợ liên hệ dù anh đã được tự do không có án, của những người lối xóm vốn có thể là những người tốt bụng trong khu chung cư nơi ông ở trở thành những người điểm chỉ báo cáo.
Bên cạnh đó, dù khó khăn, nghịch cảnh và đe dọa bởi tù đày vẫn còn những người bạn tốt như Giang, như Dự, già Đô, Bình, như chị Linh vợ một ông đại úy đang chiến đấu trong B. Nếu có những người không may như Lượng, đi tù vợ ở nhà không giữ trọn tình chung thủy vẫn còn những người như Ngọc, vợ Tuấn, biết sống, biết yêu. “Nàng đau khổ hiểu rằng: Cả hắn (Tuấn), cả nàng không có cách gì thoát khỏi cái mà cuộc đời đã dành cho hai người. Nàng thương chồng, nàng thương nàng. Nàng cam chịu.”

Cũng như vợ, tác giả cam chịu trước bóng đen đè ngập xuống cuộc đời anh, xuống cuộc đời của những người tù đã được trả tự do. Từ nhà tù nhỏ trở về nhà tù lớn họ chỉ có thể trở thành kẻ cắp, móc túi, hay chết bờ chết bụi không thân nhân giỏ giọt nước mắt cuối cùng.

Già Đô đăng lính Pháp đánh Đức trong thế chiến II, lập gia đình với một phụ nữ Pháp, có một cô con gái lai xinh đẹp, vì hào quang của Hồ Chí Minh, vì tình yêu đất nước bỏ vợ con ở lại về nước tiếp tay xây dựng quê hương, phục vụ “cách mạng”, thấy cảnh chướng tai gai mắt nói lời bất mãn bị tù. Ra tù không nơi nương tựa, già Đô làm đơn xin trở lại nhà tù không được chấp nhận. Lang thang ngủ bờ ngủ bụi, chịu đựng đói khát nắng mưa, phút sau cùng biết không qua khỏi, già đã chọn một ngôi đình để … chết. “Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một dấu vết thờ phượng …. Thật là một chỗ nằm yên tĩnh lý tưởng để phiêu diêu. Chẳng ai quấy rầy già. Phiêu diêu là một cảm giác sung sướng lạ thường. Chẳng nhớ một điều gì, chỉ nhớ mình đang tan đi và đang bay … ”

Ngụy Như Cần, người tù lâu năm nhất của trại giam Q.N được sự kính nễ của bạn tù vì tư cách và sự chịu đựng của anh đã treo cổ tự tử sau khi trại tù hoàn tất thủ tục phóng thích. Anh nghĩ anh đã trả đủ nợ đời, không muốn nhà tù lớn ngoài kia làm khổ anh và thân nhân anh. Anh chết đi còn nuối tiếc chăng là thương con cá chép trong hồ anh nuôi và huấn luyện bao nhiêu năm mỗi ngày chờ nghe tiếng anh gõ nổi lên để được anh cho ăn và ve vuốt.

Hai năm sau khi ra tù trong một chuyến đi buôn miền mạn ngược, Tuấn ghé lại trại giam phụ QN thăm bạn tù Ngụy Như Cần. Cần đã chết. Tuấn hỏi một ngườ tù : “Còn con cá chép?” Anh tù kêu lên: “Con cá chép đem về bếp cán bộ rồi.”, và giải thích: “Anh Cần chết.Tôi ra thay (ở trại phụ). Mấy hôm liền nó cứ nổi lên dọc bờ ao, rồi há mồm ngộp ngộp ở chỗ cầu rửa này. Trông như một thằng bé con. Ông quản giáo thấy nó. Ông rút súng bắn. Máu đỏ ao…”

Giữa bóng đêm tăm tối, đôi khi tiếng chữi đổng văng vẳng đâu đó trong khu cư xá giữa những người có quyền thế với nhau làm Tuấn thấy nhẹ nhõm trong lòng. Bà Bường vợ một ông công an, ganh tị vì không có cơ hội làm ra tiền bằng ông Tăng, đảng viên, cán bộ thủ công nghiệp khu phố đã chữi ông Tăng: “nhân dân lao động còn khổ vì chúng mày. Bao nhiêu chiến sĩ hy sinh ở Trường Sơn để chúng mày như thế à? Ăn ngập mồm ngập miệng. Bòn rút của nhân dân. Dân chủ mà lại khốn nạn.” Sao mà thấm thía! Tuấn nghe mà thấy “vui lên một chút trong những năm tháng cùng cực”

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn tuyên dương tự do. Qua Sáng một thanh niên tuổi mới đôi mươi, năm lần vượt ngục. Những người cai tù coi cuộc vượt ngục của anh lần thứ nhất và lần thứ hai như là một hành động lãng mạn nhớ nhau của con nít ăn chưa no lo chưa tới. Lần vượt ngục thứ hai công an bắt anh lại khi anh đang ngồi ăn cơm với bố mẹ. Lần thứ ba anh bị cùm xà lim một tháng, lần thứ tư công an cho chó cắn bươm người anh trước khi nhốt anh 2 tháng xà lim. Đến lần thứ năm họ mới nhận ra rằng đối với Sáng “tự do hay là chết” không phải là một cụm từ cường điệu nói cho vui. Có lẽ lần này họ cho anh được mãn nguyện và anh sẽ mĩm cười lấy cái chết đổi tự do. Tuấn gặp Sáng giữa bầy chó hung hãn và công an khi Sáng bị bắt lại sau cuộc vượt ngục thứ năm.

Tự do đối với Bùi Ngọc Tấn còn là tốc độ, dù là tốc độ 10 cây số một giờ của chiếc xe đạp cọc cạch của một người bạn tù vừa được tự do chở anh trên khoảng đường mòn giữa rừng rậm đến cơ quan lãnh giấy tờ xuất trại. Tuấn lẩm bẩm nói thầm với vợ, “Em, anh đang được tự do. Anh sẽ về với em.” Gần 5 năm Tuấn mới lại được ngồi trên xe đạp và bây giờ Tuấn mới biết thực sự thế nào là tự do, là phút háo hức được nhìn con và âu yếm vợ. Hẳn là Tuấn đang mĩm cười nhớ lại những phút ái ân với Ngọc.
Hơn một năm trước đây (*), tờ Văn Học, một tạp chí văn học ở hải ngoại do nhà văn Nguyễn Mộng Giác chủ trương có đặt vấn đề, vì sao sau Truyện Kiều của Nguyễn Du Việt Nam chưa có đại tác phẩm nào có giá trị văn chương ở tầm vóc thế giới, và vấn đề đã tạo nên một cuộc tranh luận thú vị.

“Chuyện Kể Năm 2000″ của Bùi Ngọc Tấn có phải là tác phẩm văn chương chờ đợi chăng?
Trần Bình Nam

Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.214 giây.