Đừng tin những gì Huy Đức viết trong “bên thắng cuộc”, mà chỉ cần nhìn Việt Nam sau 37 năm dưới ách thống trị của CSVN
1-Kẻ thắng cuộc :
Năm 1969 Hồ Chí Minh chết, từ đó Lê Duẩn liên kết với Lê Ðức Thọ lập bè phái từ trung ương đảng tới tận quân đội, công an.. để nắm trọn quyền hành. Tháng 12-1976, Hà Nội họp đại hội đảng lần thứ IV. Dịp này Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) được bầu làm ủy viên thứ 12 bộ Chính Trị, còn Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) đang làm Thành Ủy TP Sài Gòn, cũng được chọn làm ủy viên dự khuyết với Tố Hửu và Ðỗ Mười. Riêng Nguyễn Hửu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình.. trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) năm nào, cũng được giữ những chức vụ ‘ngồi chơi sơi nước’. trong đảng
Thảm nhất có Trịnh Ðình Thảo, Lâm Văn Tết, Trương Như Tảng.. bị cho về vườn. Còn những thành phần đối lập cũ thời VNCH trong lực lượng thứ ba (LLTB) như Ngô Công Ðức, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Trần Thúc Linh, Nguyễn Hữu Hạnh, Dương Văn Ba, Hồ ngọc Nhuận.. được đảng giao cho Vũ Khiêu (bộ ngoại giao) chỉ dạy về cách làm chính trị XHCH, lòng trung thành với “chủ nghĩa Mác-Lꔓ để phục vụ tốt cho Hà Nội. Sau đó các tờ phản tỉnh của thành phần trên, được đảng công bố trên báo Ðại Ðoàn Kết, để làm gương cho thiên hạ về mặt thật của những trí thức “đối lập” của Miền Nam trước ngày 30-4-1975.
Vì CSVN vừa chiếm được miền Nam, nên cán bộ đảng từ trên xuống dưới đều tin tưởng vào tính ưu việt “ bách chiến bách thắng “ của chủ nghĩa Marx trước sự suy tàn của tư bản nhất là Hoa Kỳ. Vì vậy đảng “Duẩn-Thọ” nhất quyết đưa đất nước và dân tộc VN vào con đường tiên tiến của XHCN, để nắm vững chuyên chính vô sản với mục đích “kiểm soát toàn bộ người dân cả nước”, từ tư tưởng, văn hóa cho tới kinh tế, xã hội. Tóm lại tất cả đồng bào cả nước (ngụy hay ta), từ đó coi như những con cá nằm trong rọ của bộ máy công an, được thiết lập chằng chịt như mạng nhện, tổ ong, từ trung ương tới tận các tổ dân phố và các công đoàn, đoàn thể phụ nữ, thiếu nhi..
Cũng từ đó đã phát sinh ra thói kiêu căng phách lối và ngạo mạn của các đỉnh cao trí tuệ tại bắc bộ phủ, mà lố bịch nhất là chuyện “thủ tướng CSVN Phạm Văn Ðồng, kẻ đã ký bán Hoàng-Trường Sa cho TC năm 1958” trong hội nghị thượng đỉnh các quốc gia không liên kết vào tháng 8-1976 tại Tích Lan, đã công khai đe dọa và phỉ báng các nước Á Châu lân cận. Hậu quả trên, khiến chẳng còn ai muốn liên lạc và tiếp xúc với VC. Ðã thế Lê Duẩn còn ký với tổng bí thứ Liên Xô Brezhnev bản thông cáo chung về việc hợp tác và liên minh quân sự giữa hai nước. Ðể theo đuổi cuộc chiến mới, CSVN lại vay nợ của Liên Xô nhiều tỷ Mỹ kim tiền súng đạn, bom, mìn. Sau đó cho hạm đội Nga vào trú đóng tại Ðà Nẳng và Cam Ranh để trừ nợ.
Trong kế hoạch ngũ niên lần thứ hai (1976-1980), Nguyễn Văn Linh là người đầu tiên được đảng giao nhiệm vụ “cải tạo kinh tế Miền Nam”, để bắt kịp kinh tế tiền tiến XHCN Miền Bắc trước tháng 4-1975. Kế tiếp là Ðỗ Mười, Trần Văn Danh, Cao Ðăng Chiếm thay Mười Cúc.. nhưng tất cả đều thất bại vì tiến trình tập thể hoá kinh tế, nông nghiệp không thực hiện được theo chính sách đảng nghị quyết. Do người dân Miền Nam không chịu hợp tác nên lương thực bị thiếu hụt trầm trọng. Nhiều nơi kể cả vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long phải ăn độn hay bị đói vì thiếu lương thực.
Tại Sài Gòn và các thành phố lớn của Miền Nam, qua hai đợt đánh tư sản mại bản, theo ám số X1-X2 do Ðỗ Mười phụ trách, đã biến nền công kỹ nghệ phồn thịnh trước tháng 5/1975 của VNCH tê liệt và sụp đổ hoàn toàn. Ở miền Bắc các cơ sở kỹ nghệ nặng cũng bị thiệt hại trầm trọng qua cuộc chiến biên giới Việt Trung, khiến cả nước lâm vào cảnh thất nghiệp. Ðể cứu đói và ngăn chận cảnh hỗn loạn, CSVN xuất cảng lao động tới các nước Ðông Âu và Liên Xô, bắt đầu từ đó. Ðã thế chiến tranh với Tàu và Kampuchia, càng lúc càng thảm khốc và kéo dài, làm cho ngân sách nhà nước trở nên thâm thủng, khiến nền kinh tế quốc doanh vốn đã èo uột, nay như chiếc xe không phanh phăng phăng lao nhanh xuống vực thẳm XHCN.
Ðất nước điêu tàn, dân chúng lầm than đói rách khổ sở nhưng đảng vẫn không nhận chịu thất bại để sửa đổi, vẫn cứ bè phái tranh dành chức vụ béo bở sau bức màn đỏ, cứ nhắm mắt trung thành với Mac-Lê, với chính sách kinh tế tập trung siêu việt. Rồi lại tiếp tục đổ thừa sự thất bại do “tàn dư Mỹ-Ngụy” phá hoại, để có cớ bắt giam những người chống đói chính sách đảng. Cuối cùng với quyết tâm “ xã hội chủ nghĩa hóa kinh tế theo Nga “thi hào Tố Hữu” một thời nổi tiếng với bài thơ ca tụng Stalin, được phong chức phó thủ tướng đặc trách kinh tế.
Tháng 3-1982 lại họp đại hội đảng lần thứ V trong cảnh suy sụp toàn diện tại VN. Lần này Võ Văn Kiệt trở thành ủy viên chính thức thứ 10 của bộ Chính Trị, giữ chức vụ chủ nhiệm ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước. Trong khi đó Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh.. lại bị loại khỏi bộ Chính Trị. Nổi nhất trong kỳ đại hội này là sự kiện đảng ban hành “ Bản Hiến Pháp Mới” rập đúng theo khuôn mẫu bản hiến pháp củạ Liên Xô, từ cơ cấu tổ chức cho tới lối hành văn, với câu mở đầu thay vì “Học tập tư tưởng Mao Trạch Ðông”, nay được đổi thành “Trung Quốc là kẻ thù đầu đời và nguy hiểm nhất..”.Ngoài ra đảng còn dựng tượng Lê Nin cao trên 5m tại Hà Nội. Nói chung đại hội đảng năm 1982, CSVN ÐỔI MỚI TƯ DUY “BỎ TÀU ÐỎ THEO LIÊN XÔ”, tăng cường thêm quyền lực cho Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ và bè nhóm thân Nga, mục đích chính chỉ vậy.
Trước cảnh khủng hoảng kinh tế cả nước, nhất là tại thành phố Sài Gòn có dân số đông nhất VN. Nên cả Nguyễn Văn Linh lẫn Võ Văn Kiệt, lần lượt trong chức vụ Thành Ủy đã tự cứu mình trước, bằng cách cho một số doanh nhân xé rào “cơ chế tập trung và qui hoạch của đảng”, lập ra những công ty hợp doanh, làm ăn theo lối kinh tế thị trướng, mở đầu cho con đường Ðổi Mới Chính Thức sau này. Tuy nhiên việc làm ăn “chui” này cũng chỉ kéo dài hơn một năm, thì bị bộ Chính Trị gai mắt ứa gan vì cảnh “trâu cột ghét trâu ăn”, nên đã ban hành nghị quyết số 01/NQ-TW ngày 14-9-1982, chỉ trích và kết tội những thành phần kinh doanh trên là đi trật đường hướng XHCN. Sự thật là thế đó, vậy mà Trần Trọng Thức qua bài viết “Nhìn lại một chặng đường Ðổi Mới” đăng trong Kiến Thức Ngày Nay số 314 ngày 1/5/1999 lại cuồng điều rằng “ Nếu không có sự quyết tâm, tích lũy kinh nghiệm của đảng qua nhiều chặng đường thử thách, đúc kết thành cương lỉnh.. “ thì làm gì có đổi mới kinh tế tại VN?
Năm 1985 Tố Hữu đặc trách kinh tế lại ra lệnh đổi tiền làm cho tình trạng lạm phát tăng vọt tới 700% vì tiền Hồ mất giá trị, hậu quả đưa tới việc thi hào bị mất chức trong đợt cải tổ chính phủ vào tháng 6/1986.
Tại Liên Xô, năm 1982 Brezhnev chết báo hiệu sự sụp đổ gần kề của đế quốc Nga qua hai triều đại kế tiếp Andropov và Chernenko.. Tình trạng bi đát càng thêm thảm thê vì không có một biện pháp cải thiện nào được nhắc tới. Tháng 3-1985 Gorbachev lên làm tổng bí thư Liên Bang Sô Viết, trực diện với các nguy cơ kinh tế xã hội. Vì vậy để cứu đảng, cứu thân bắt buộc người lãnh đạo nước Nga phải Ðổi Mới bằng hai chính sách “ Cởi Mở (Glasnov) “ để bài trừ tham nhũng và “ Tái Cấu Trúc (Perestroika) “ để cứu kinh tế quốc doanh đang suy sụp.
Sau tháng 5-1975, CSVN không còn là chư hầu của Tàu đỏ mà lệ thuộc hẳn vàọ Liên Xô, nên Nga đã cung ứng hầu hết nhu cầu cho Hà Nội lên tới 97%. Về lãnh vực quân sự, Nga viện trợ cho CSVN hơn 1 tỷ rưỡi USD hằng năm, kèm theo hàng chục ngàn cố vấn.. Do đó Gorbachev đã thông báo cho Hà Nội phải chuyển hướng để tự cứu và sinh tồn.. vì lúc đó chính Nga cũng đang trên đà sắp vỡ nợ. Nhờ cơ hội này, Nguyễn Văn Linh lại được đảng kêu về Bắc và cho vô lại bộ Chính Trị. Tháng 7/1986 đảng đưa ra nghị quyết chuẩn bị rút quân khỏi Kampuchia. Tháng 8-1986, đảng lại tuyên bố muốn nối lại bang giao với Trung Cộng và Thái Lan nhưng Tàu đỏ không thèm trả lời, lại cứ xua quân đánh chiếm liên tục đất đai của VN tại biên giới hai nước.
Lê Duẩn chết ngày 10-7-1986 nhưng thế lực của Lê Ðức Thọ vẫn còn nguyên vẹn, tuy nhiên vì thời cuộc diễn ra quá bất ngờ, liên quan tới sống chết giữa ba đảng CS Nga, Tàu và VN. Vì vậy trong cái thế không thể dừng được, nên Trường Chinh (thân Tàu đỏ), bị hạ bệ từ 1956 qua việc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, được Thọ cho làm quyền tổng bí thư thay Duẩn. Tất cả đều là mệnh lệnh của Gorbachev, nhằm làm lợi cho Nga trong chính sách đối ngoại mua chuộc Tàu và làm vừa lòng Mỹ. Rồi Trường Chinh và nhiều cán gộc trong bộ Chính Trị lại phải sang chầu Liên Xô để gặp Gorbachev tại Hải Sâm Uy (Vladivostok) nhận chỉ thị. Từ đó đảng CSVN mới quay sang Ðổi Mới qua khẩu hiệu “Ðổi Mới Hay Là Chết”. Dịp này, đảng lại phát minh ra một từ ngữ rất mới lạ, để ám chí chính sách “Kinh tế Thị Trường”. Ðó là “Hạch Toán Kinh Doanh XHCH”.
Kế tiếp là màn diễn “ bộ ba Thọ-Chinh-Ðồng từ chức vì tuổi gia “, để có cớ loại hẳn Võ Nguyên Giáp ra khỏi chính trường, tới chuyện ủng hộ Mười Cúc Nguyễn văn Linh lên làm tổng bí thư trong kỳ đại hội đảng lần thứ VI vào cuối năm 1986. Tóm lại năm 1982, CSVN họp đại hội đảng lần thứ V, kiên quyết bỏ Tàu theo Nga. Bốn năm sau (1986), trong nổi điêu tàn của CS Nga báo hiệu giờ thứ 25 sụp đổ, nên trong đại hội đảng lân thứ VI (12-1986) được nhóm họp với mục đích đổi mới tư duy “Bỏ Nga Theo Tàu” thế thôi.
Công cuộc Ðổi Mới coi như mở màn từ năm 1987. Lúc đó CSVN chỉ có Nga là đối tượng duy nhất để học hỏi nên hằng hằng lớp lớp cán gộc từ Linh tới Phạm Hùng, Nguyễn Quyết (quân đội) chen chân nhau sang chầu Mạc Tư Khoa. Vì không thể che dấu được sự thật, nên Linh xác nhận thất bại của hệ thống kinh tế quốc doanh và ra lệnh sửa đổi bằng “kinh tế thị trường”. Nhưng để không mất ưu quyền độc tôn, đảng gọi đó “Kinh Tế Thị trường Theo Ðịnh Hướng XHCN”. Tuy Nguyễn Văn Linh ban hành lệnh Ðổi Mới nhưng Võ Văn Kiệt qua cố vấn của các chuyên viên kinh tế thời VNCH giúp, mới là người dám thi hành nhũng cải cách kinh tế táo bạo, mà mục đích chính là để được chia phần lớn lợi nhuận khi đứng làm “ ô dù “. Do sự cởi mở có chừng mực được thi hành, nên bắt đầu từ thập niên 90 nền kinh tế VN mới bắt đầu hồi phục và phát triển. nhất là trong lãnh vực nông nghiệp vì nông dân không còn bị bắt buộc tập thể hóa lao động và bán luá cho nhà nước với giá rẻ mạt.
Trước nguy cơ bị sụp đổ và tan vỡ như Ðông Ðức, Ðông Âu, Liên Xô.. nên bộ Chính Trị mở phiên họp khẩn cấp ngày 10-4-1990 để tìm lối thoát cứu đảng, cứu thân. Hầu hết các cán gộc có mặt đều đổ thừa cho đế quốc Mỹ, qua âm mưu thâm độc ‘ diễn biến hòa bình (dịch từ tiếng Tàu – He Ping Yan Biang. mà TC đã xài sau vụ thảm sát Thiên An Môn) ‘.Sau đó đảng nghị quyết bằng mọi giá, phải nối lại tình đồng chí với TC để bảo vệ CNXH. Tóm lại Ðổi Mới tại VN chỉ là sự góp nhặt từ cởi mở, để theo đó mà tái cấu trúc các sự kiện có liên quan tới kinh tế, ngoại giao như là hậu quả tất yếu của thời mở cửa đón nhận con buôn nước ngoài.
Giữa năm 1991, đảng lại dại hội lần thứ VII (1991-1996). Kỳ này Ðỗ Mười làm tổng bí thư, Lê Ðức Anh chủ tịch nhà nước và Võ Văn Kiệt thủ tướng. Ngoài ra Phan Văn Khải, Nông Ðức Mạnh.. đều vào bộ Chính Trị. Trừ Kiệt và Khải tương đối cởi mở, hầu hết số cán gộc còn lại thuộc phe bảo thủ, nắm quyền quân đội và công an. Tuy nhiên vì không còn con đường lựa chọn nào để cứu đảng, trong lúc nguồn tài trợ từ Nga, Ðông Âu đã chấm dứt, nên bộ Chính Trị đành cắn răng ủng hộ ‘ đổi mới ‘.Kỳ này Mười Cúc bị loại ra khỏi trung tâm quyền lực.
Không ai phủ nhận những thành tích của Võ Văn Kiệt từ khi còn làm Thành Ủy Sài Gòn cho tới lúc giữ chức thủ tướng (1991-1997) qua công cuộc đổi mới. Câu hỏi được đặt ra là thành tích đó, thật sự ai được hưởng ?. Ngoài ra Kiệt chỉ đổi mới về kinh tế để có cơ hội chia chác hưởng lợi nhuận. Nhưng về lãnh vực chính trị, vẫn răm rắp tuân hành theo đường lối nghị quyết của đảng, đã được ghi trong bản hiến pháp mới năm 1992 ‘VN tiếp tục độc đảng song song với chính sách’ kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ‘.Ngoài ra điều 4 của HP trên còn xác nhận thêm ‘ đảng là đai biểu về quyền lợi của giai cấp công nhân, lao động và cả dân tộc theo chủ nghĩa Lê-Mark và tư tưởng HCM (thay Mao Trạch Ðông) ‘.
Hy vọng giữ chức thủ tướng thêm một nhiệm kỳ vào đại hội đảng kỳ VIII (1996-2000), Kiệt đã gủi bản cáo chính trị ‘ tối mật‘ về trung ương vào tháng 8-1995 với lập trường luôn ủng hộ ‘độc đảng ‘.Nhưng sự nịnh hót trên không được phe bảo thủ để ý tới. Bởi vậy sắp đến kỳ đại hội đảng, Kiệt bị Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh chỉ trích nặng nề về công cuộc đổi mới và âm mưu diễn biến hòa bình. Nhưng kết quả bộ ba Mười, Anh, Kiệt vẫn được giữ chức cũ, Nông Ðức Mạnh (chủ tịch QH), Phan Văn Khải, Trần Ðức Lương (phó thủ tướng). Riêng Nguyễn tấn Dũng được vào bộ Chính Trị (13) cũng giữ chức phó thủ tướng).
Tháng 11-1996, Lê Ðức Anh bị sốt xuất huyết não, sau đó bị liệt nửa thân. Trước khi về vườn, Anh dựa vào vấn đề tuổi tác kéo theo kẻ thù không đội trời chung của mình là Kiệt cùng từ chức vào tháng 9-1997. Lương được thế chức Anh, còn Khải làm thủ tướng thay Kiệt. Cũng từ đó Võ Văn Kiệt dần dần bị thất thế dù trên danh nghĩa vẫn là cố vấn. Trong khi đó Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh có nhiều bè phái, nên vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong bộ Chính Trị và Ban Thường Vụ kéo dài tới nay. Ðó là lý do khiến Kiệt bất mãn nên đã viết một lá thư phổ biến ra hải ngoại, về vụ Nguyễn Khoa Ðiềm cấm báo chí trong nước, không được phổ biến bài viết của Kiệt nói về cuốn hồi ký của Lý Quý Chung. Chỉ vậy thôi mà báo chí hải ngoại đã bốc Kiệt lên tận mây xanh, còn phong chức là Ðặng Tiểu Bình gì gì đó, thật là hết ý.
Ðổi mới là vậy đó nhưng Trần Bạch Ðằng (Tư Ánh-Trương Gia Triều), một trong những cố vấn của Võ Văn Kiệt, vào cuối năm 1996 đã cuồng điệu khi nhân danh cho đảng CSVN viết gửi thiên hạ ‘ bản thông điệp của thế kỷ XXI ‘ đại ý xác quyết rằng cái lớn nhất của thế kỷ XX tại VN, đó là sự hoán chuyển vị trí từ nước thuộc địa sang độc lập, dân nô lệ sang tự do và quốc gia đoí nghèo sang quốc gia chắc chắn sẽ giàu mạnh ‘.Tiếc thay nay cả Võ Văn Kiệt lẫn Trần Bạch Ðằng đều chết, nên không thấy được sự khủng hoảng về kinh tế lẫn chính trị tại VN từ đầu năm 2008, hậu quả tất yếu của cái gọi là ‘ Ðổi Mới Tư Duy’ với mục đích kinh tài cứu đảng và làm giàu cho tư bản đỏ, mà ai cũng thấy. Ngoài ra dân đói cũng kệ, nước sắp mất về Tàu đỏ.. có sao đâu, miễn đảng ta đời đời độc tôn và bền vững là đủ.
Sau khi VNCH bị sụp đổ, chẳng những tất cả Quân, Công, Cán, Cảnh của Miền Nam bị trả thù, cộng sản Hà Nội còn tận tuyệt hủy diệt các tầng lớp tư sản qua tội danh gán ghép, chụp mũ, bịa đặt cho mọi người là bóc lột, phồn vinh giả tạo, nguy dân.. Tại Ðại Hội đảng lần thứ IV vào tháng 5-1975, Lê Duẩn đã vênh váo tuyên bố rằng, từ nay người VN sẽ đi trên thảm vàng, đồng thời đuổi kịp rồi qua mặt Nhật Bản trong vòng 15 năm tới. Trên thực tế ai cũng biết trước tháng 4-1975, Bắc Việt chỉ có hai công trình vĩ đại nhất là Lăng Hồ Chí Minh tại Ba Ðình Hà Nội và Khách sạn quốc tế trên bờ Hồ Tây, do Fidel Castro của Cu Ba xây tặng. Trong lúc đó tại VNCH, đâu đâu cũng có những cơ sở kỹ nghệ nặng và nhẹ, đều được trang bị máy móc mới và tối tân, nhất là các ngành dệt, điện, lắp ráp các loại hàng sản xuất tiêu thụ. Khi VC vào, đã tận tình vơ vét máy móc đem về Bắc, ra lệnh cho nhiều nhà máy ngưng hoạt động hay biến thành quốc doanh, hữu danh vô thực.
Song song với kế hoạch trả thù và tận diệt các tầng lớp trên, VC còn bày thêm quốc sách kinh tế mới vào cuối năm 1975, để đuổi hết số gia đình có liên hệ tới chế độ VNCH, đang sống tại Sài Gòn và các tỉnh thành, đi lao động canh tác tại rừng sâu, núi cao, ma thiêng nước độc. Kế hoạch thâm độc này, vừa tống khứ được những thành phần còn lại mà VC đã xếp loại nguy hiểm, sau khi chồng con thân nhân của họ đã bi đảng gạt vào tù. Có như vậy, VC mới chiếm được nhà cửa ruộng vườn và các tiện nghi của Miền Nam, để phân phối cho cán bộ miền Bắc, lúc đó chỉ có súng đạn, tăng pháo và mớ lý thuyết của Mác-Lê-Mao-Hồ mà thôi.
2-Kẻ thua cuộc :
Ai đã từng là tù nhân của VC, dù có ở trong các trại tù tại miền Nam hay bị đầy ải ra vùng biên giới Việt Bắc, đã bị giặc cầm giam lâu hay mau, chắc hẳn sẽ chẳng bao giờ quên nổi những đau đớn về vật chất và nhất là sự tủi nhục tinh thần, khi bị bọn VC gọi chúng ta là “ ngụy quân, ngụy quyền, là những đống rác bẩn thỉu, cặn bã của xã hội, đánh giặc thuê cho Mỹ, Pháp, Nhật..”.
Ai đã từng bị VC cướp của, cướp nhà, cướp vợ con, bị đày đoạ lên tận miền rừng núi để phát triển kinh tế mới. Ða số đã ngã quỵ vì không chịu nổi mưa nắng, cùng cảnh ma thiêng nước độc, bệnh sốt rét rừng, ghẻ lở, kiết lỵ.. mà không có thuốc uống. Cuối cùng những người còn sống, kiệt sức vì đói bệnh, nên đã bỏ rừng chạy ngược về thành. Họ đã trở nên vô gia cư và ở bất cừ nơi nào, kể cả nghĩa địa, gầm cầu, chùa miễu.. ăn sống, phó mặc cho định mệnh và bọn công an, tới hốt bắt, đưa lên lại vùng kinh tế mới, rồi họ lại về. Rốt cục huề cả làng, và càng ngày càng có nhiều người vô gia cư sống khắp mọi nẻo đường đất nước, trong xã nghĩa thiên đường.
Chắn chắn những thành phần trên, nếu may mắn bằng mọi lý do gì, nay tới được bến bờ tự do và được sống tạm trên mọi nẻo đường thế giới, chẳng ai có thể vô tâm để quên kiếp đời ‘ Tị Nạn Việt Cộng ‘ trăm đắng ngàn cay, biển hờn trời hận, chỉ có thể đầu thai lần khác, họa chăng mới xóa nổi vết nhơ của Dân Tộc VN trong giòng lịch sử cận đại. Bởi vậy mấy năm trước, VC đã dùng quyền lợi để yêu cầu chính quyền Mã Lai, Nam Dương.. phá bỏ các Tượng Ðài kỷ niệm Thuyền Nhân VN đã bỏ mình trên biển Ðông, khi trốn chạy khỏi thiên đàng xã nghĩa, tại các trại Tị nạn Việt Cộng. Hành động dã man này của bọn đầu sỏ Bắc Bộ Phủ, chẳng những không làm ai khiếp sợ, trái lại còn bị Cộng đồng Người Việt Tị Nạn Cọng Sản khắp thế giới thêm khinh ghét, khiến chúng đi tới đâu cũng bị mọi người tẩy chay và biểu tình đã đảo.
- AI GÂY RA CHIẾN TRANH, ÐỂ MỸ RẢI CHẤT ÐỘC MÀU DA CAM ?
Sau khi được Lào và Kampuchia đồng thuận, ngày 19-5-1959 Hồ Chí Minh nhân danh Trung Ương Ðảng VC, ra lệnh mở đường rừng Trường Sơn và đường biển, để chuyển quân và vũ khí của Nga-Tàu và khối Cộng Sản, vào miền nam xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Con đường mang bí danh 559 do Võ Bẩm khai phá đầu tiên. Ðường gồm ba giai đoạn, đầu tiên là đường bô, gùi thồ. Từ năm 1964-1971 giai đoạn cơ giới hóa. Từ 1971-1975, thành xa lộ đất với đủ cầu cống và ống dẫn dầu. Song song còn có đường biển 759 nhưng chỉ hoạt động thời gian ngắn thì dẹp, vì bị Hải Quân Hoa Kỳ và VNCH ngăn chận. Ðể hoàn thành giấc mộng xâm lăng, từ năm 1964 Ðồng Sĩ Nguyên thay thế Ðinh Ðức Thiện và Phan Trọng Tuệ, chỉ huy đường 559. Tại đây, VC luôn duy trì 120.000 bộ đội chiến đấu, gồm 8 Sư đoàn bộ binh, 10.000 nam nữ Thanh Niên Xung Phong và 1 Sư đoàn phòng không của Bộ TTM biệt phái.
Năm 1973 sau hiệp ước ngưng bắn, VC công khai di chuyển quân và vũ khí đêm ngày trên đường. Bỏ cung trạm, hằng sư đoàn lính và xe cộ, di chuyển thẳng từ Bắc vào Nam. Trước kia muốn hoàn thành một chuyến đi, phải mất 4 tháng. Từ năm 1973-1975, chỉ cần 12 ngày. Phụ trách chuyên chở, VC thành lập 2 Sư đoàn vận tải, dành cho Ðoàn 559 với hơn 10.000 xe cộ đủ loại. Nói chung tới đầu năm 1975, VC đã xây dựng được con đường rừng dã chiến Trường Sơn, xuyên qua Lào, Nam VN và Kapuchia dài 16.700 cây số, cộng thêm 1500 km rải đá, 200 km tráng nhựa.
Song song có 1500 km ống dẫn dầu, 1350 km đường dây truyền tin, 3800 km đường giao liên và 500 km đường sông. Theo Ðồng Sĩ Nguyên, đã có hơn 19.000 người chết và hơn 30.000 khác bị thương tại đây nhưng bi thảm nhất là thân phận những người con gái trong lực lượng Thanh Niên Xung Phong, cũng như Ðại Ðội Pháo Nữ Ngư Thủy của tỉnh Quảng Bình. Họ vì sợ chế độ hộ khẩu, công an và tem phiếu thực phẩm, nên hy sinh cho đảng, tiêu phí cả một đời con gái tuổi trăng tròn, dưới mưa bom trời đạn. Rốt cục ngày VC đại công cáo thành, chiếm trọn được của cải vật chất miền Nam. Theo Huỳnh văn Mỹ, văn công đảng viết trên báo, thì những kẻ may mắn còn sống sót, sau khi nhận được bằng khen là chiến sĩ gái xuất sắc, những cô gái quê miền Bắc, đa số vào chùa làm sư nữ, riêng những người làng quê xóm biển Quảng Bình, thì sống goá bụa trọn đời, vì sau cuộc chiến, ai cũng già nua đen đũi, thì có ma nào dám ngó ?
Chưa hết đâu, chẳng những thanh niên nam nữ phải ra tuyền tuyến hy sinh cho đảng, mà các bà mẹ cũng phải hy sinh. ‘ Mẹ đào hầm, mẹ đào hầm từ lúc tuổi còn xanh, nay mẹ đã phơi phới tóc bạc mà vẫn cũng phải đào hầm dưới bom đạn’. Ðó là một đoạn trong bài vè tuyên truyền của đảng. Từ năm 1956 ngay khi mở lại cuộc chiến xâm lăng tại miền nam, Hồ Chí Minh thay vì di tản dân chúng tại làng Vĩnh Mốc, thuộc quận Vĩnh Linh, bên kia cầu Hiền Lương, tỉnh Quảng Trị, thuộc khu phi quân sự, để đồng bào có thể tránh được bom đạn vô tình của cả hai phía.
Nhưng không Hồ đã bắt dân chúng phải bám trụ tại đây, biến cả làng Vĩnh Mộc thành địa đạo, ăn, ngủ, sinh sống và chết ngay trong lòng đất. Có vậy mới dòm ngó được biển Ðông, Cửa Tùng và tiếp tế cho du kích bộ đội hoạt động tại Cồn Cỏ sát nách. Theo một số du khách xuống thăm địa đạo Vĩnh Mốc, thì chỉ mới sống ở địa ngục trần gian có 15 phút, mà ai cũng đã ôm ngực khó thở. Vậy mà Hồ và đảng, bắt ép dân làng phải sống dưới nhiều năm, đến độ sinh được 17 trẻ trai gái. Cuộc sống hiện thực như vậy, không sinh quái thai, dị tật hay mang hận bẩm sinh, thì đó mới là chuyện lạ trên đời.
Theo tài liệu, thì làng Vĩnh Mốc có diện tích hơn 3km2 mà 1/3 là địa đạo. Nơi này truớc 1975, là chỗ sinh sống của 237 gia đình với hơn 1196 nạn nhân. Ðã hứng chịu 9680 tấn bom đạn vì đảng không cho di tản, phải sống chui trong lòng đất suốt 600 ngày đêm. Cũng tại đây qua những tấm bia thịt, VC đã chuyển đươc vào nam 3350 tấn hàng hóa và 11.500 tấn hàng cho bộ đội, trên đảo Cồn Cỏ.
Khác với Vĩnh Mốc nằm ngay bờ biển, địa đạo Củ Chi nằm dưới lòng đất thuộc các khu rừng già Hó Bò, Bời Lời, Bến Súc, Thanh Ðiền.. nhưng không liên tục mà riêng rẽ đứt đoạn và gần như có đủ trong 15 xã của quận Củ Chi như Phú Mỹ Hưng, An Phú, An Nhơn Tây, Nhuận Ðức, Trung Lập, Phú Hòa Ðông, Tân Thạnh Ðông, Trung An, Phước Vĩnh Ninh, Phước Thạnh, Phước Hiệp, Thái Mỹ, Tân Thông Hội, Tân Phú Trung và Tân An Hội. Nói chung điạ đạo Củ Chi đã có thời kỳ chống Pháp.
Bắt đầu năm 1960, cục R quanh quẩn đóng tại Tây Ninh sát biên giới Việt Miên, nên các hầm hố trong địa đạo tại Củ Chi được bới mốc sửa sang trở lại, để tiện cho cán bộ đảng trốn và tẩu thoát, khi có pháo kích, giội bom hay hành quân càn quét. Vì hầu hết dân chúng vùng này đều về an cư lập nghiệp trong vùng quốc gia, nên không được đảng nhắc tới trong danh sách nạn nhân chất độc màu da cam. Ngoài ra tại An Thới, Trảng Bàng Tây Ninh cũng có một địa đạo nhưng không quan trọng. Trên đảo Phú Quốc, VC cũng đào một con đường hầm dài từ trại Tù Quân Cây Dừa ra biển, để vượt ngục. Tất cả đều thấm máu người, lót đường cho đảng được giàu có, tỷ phú như ngày nay.
Nhưng éo le và bi thảm nhất vẫn là đồng bào Quảng Trị, khi bị lịch sử chọn làm nơi đối đầu bom đạn, khiến cho người dân của cả hai phe, phải gánh chịu biển lệ, núi xương, sông máu và trời sầu hận khổ. Những địa danh một thời long trời đất lở như Hiên Lương, Bến Hải, Vĩnh Mốc, Cồn Cỏ, Cổ Thành, Quốc Lộ 9, Khe Sanh, Caroll, Tà Cơn, Dốc Miếu, Cồn Tiên và nhất là con đường sông máu mang tên Ðại Lộ Kinh Hoàng, ngàn năm muôn thuở sống mãi trong Việt Sử, nói lên một tai kiếp của dân tộc, do Hồ và đảng VC cõng rắn về cắn gà nhà.
Cả con sông Thach Hãn hiền hòa khả ái cũng đầy vết bom dạn, ngay từ đầu nguồn qua các nhánh khe Tà Lụ, Ba Lòng, Ái Tử, Vĩnh Phước, Vĩnh Ðịnh, Bích La, Bến Hải và Triệu Hải, trước khi chảy vào biển Ðông. Cổ thành Dinh Công Tráng một di tích lịch sử, có từ năm 1823 thời vua Minh Mạng, cũng là nơi chứng kiến bom đạn và mạng người lá rụng của hai phía, trong 82 ngày đêm giựt dành trong năm 1972. Rốt cục những người lính Dù,TQLC, BDQ, Thiết Giáp, SD1,2,3 và ngay cả DPQ, NQ Quảng Trị đã chiến đấu liên tục, để cắm lại ngọn cờ quốc dân, màu vàng 3 sọc đỏ trên nóc cổ thành thân yêu, cho tới tháng 4-1975 mới lọt vào tay giặc Cộng. Dân chúng sống lầm than khổ ải như thế, thì đâu cần phải bị hội chứng chất độc màu da cam, da vàng.. mới bị quái thai, bạo bệnh như VC tuyên truyền, để đòi tiền bồi thường.
- PHONG TRÀO VƯỢT BIỂN, TỊ NẠN CỘNG SẢN TÌM TỰ DO (4/1975-2006) :
Ðầu tháng 4-1975, Người Mỹ đã bắt đầu chạy khỏi Nam VN bằng chuyến bay định mệnh, đưa 250 trẻ mồ côi và 37 nhân viên của Dao đi theo săn sóc. Nhưng chiếc C5 đó đã bị tai nạn, chỉ còn 175 em sống sót với một số người lớn may mắn. Tai nạn này đã báo trước những thảm kịch sắp tới cho làn sóng người bỏ nước ra đi vì không muốn sống chung với rợ Hồ, giết người cướp của.
Ngày 15-4-1975, thượng viên Hoa Kỳ thông qua đạo luật, cho phép 200.000 dân tị nạn Ðông Dương, được vào sống trên đất Mỹ. Song song, chính phủ Mỹ cũng mở chién dịch Frequent Wind tại Sài Gòn, để di tản các công dân Mỹ và 17.000 người Việt có liên hệ. Máu lệ và thảm kịch VN đã khơi nguồn từ đó, vào những ngày cuối tháng 4-1975, khi ngàn ngàn vạn vạn người với đủ mọi phương tiện, tiến ra biển Ðông, để mong được Ðệ Thất Hạm Ðội cứu vớt những chỉ tới ngày 2-5-1975 thì chấm dứt. Tóm lại từ tháng 5-1975 tới bây giờ, người Việt bỏ nước ra đi để tìm tự do và đất sống, hoàn toàn chấp nhận may rủi “ một sống chín chết “, trong hoàn cảnh bơ vơ tự cứu. Do trên hầu hết những người đến được bờ đất hứa, đã phải trả một giá thật đắt, trong đó một dạo có hằng trăm ngàn câu chuyện, bi thảm não nùng của thuyền nhân VN, bị HẢI TẶC THÁI LAN cướp giết, trôi giạt vào hoang đảo và đã ĂN THỊT NGƯỜI lẫn nhau để mà sống.
Sau khi cưỡng chiếm xong VN, đảng Hồ và đảng Mao trở mặt, nên VC đã quy tội cho Ba Tàu Sài Gòn-Chợ Lớn là mối đe dọa, rồi đòi Trung Cộng phải qua hốt hết 1,2 triệu người Việt gốc Hoa về nước. Sự kiện được Tàu Cộng chấp nhận, phái hai chiến hạm tới các hải cảng VN để nhận người. Nhưng đến cho có mặt, chứ Tàu Cộng đâu có ngu, lãnh đám dân nghèo này về nước đê nuôi ăn, vì vậy nửa đêm nhổ neo rút cầu, âm thầm về nước. Sáng ngày 24-3-1978 trên khắp các nẻo đường Sai Gòn-Chợ Lớn, bổng xuất hiện rất nhiều xe vận tải, chở công an, bộ đội và hằng ngàn thanh niên nam nữ đeo băng đỏ trên tay áo. Theo đài phát thanh của VC thông báo, thì đây là chiến dịch “ Ðánh Tư Bản – Diệt Thương Gia “.Trước đây vào sáng ngày 20-3-1978, tại Chợ Lớn, cũng đã có một cuộc xô xát, giữa trăm người Hoa và công An VC phản đối bắt bắt lính, bắt đi kinh tế mới và đòi được trở về Tàu, sống với Trung Cộng. Nhưng lần này, cuộc bố ráp qui mô không phải để bắt người Hoa chống đối hôm trước, mà là xộc vào từng nhà,cùng các cửa tiệm, để kiếm tiền đôla và vàng cất dấu, cũng như kiểm kê tất cả hàng hóa kể cả cây chổi, ngoại trừ hình “ bác “ và lá cờ “ đảng “, máu đỏ sao vàng. Nghe nói lần đó, đảng đã hốt của Người Hoa gần 7 tấn vàng và cả mấy chục bao bố tiền đô Mỹ, khiến cho mấy chục người uất hận phải tự tử chết. Vậy là đảng đã ba bước nhảy vọt, chiến thắng tư bản chủ nghĩa, bước lên thiên đàng xã nghĩa ưu việt. Cũng từ đó đã có trên 250.000 Hoa kiều phải bỏ nước ra đi và theo thống kê của Cao Ủy Tị Nạn năm 1983, trong số này có trên 50.000 đã chết trên biển vì sóng gío và hải tặc Thái Lan.
Sau ngày 30-4-1975 khi Miền Nam bị VC Hà Nội cưởng chiếm, thì Biển Ðông đã trở thành cửa ngỏ để đồng bào vượt thoát tìm tự do. Nhưng đồng thời biển cũng đã biến thành hỏa ngục và trên hết, đảng VC đã thưc hiện được công trình vĩ đại nhất trong Việt Sử. Ðó là KỸ NGHỆ XUẤT CẢNG NGƯỜI, từ cho thuyền nhân vượt biển chính thức, tới các chương trình ra đi có trật tự (ODP), hồi hương con Mỹ Lai và Mua Vợ Bán Chồng giả. Tất cả các nghiệp vụ trên, đều giúp cho tập thể lãnh đạo đảng giàu to nhờ thu vào được nhiều vàng, tính tới cuối năm 1989, đảng thu vào chừng 3.000 triệu mỹ kim, con số nhìn vào thấy rởn tóc gáy nhưng lại là sự thật. Bởi vậy đâu có ngạc nhiên, khi biết xã nghĩa VN, là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, lại có nhiều tỷ phú đứng hàng đầu nhân loại.
Theo sử liệu thì năm 1978 là năm VC chính thức trục xuất người Hoa ra biển. Ðây cũng là thời gian đảng xuất cảng người nhiều nhất, mà theo thống kê của Cao Uỷ Tị Nạn, số người tạm trú tại các Trại khắp Ðông Nam Á, lên tới 292.315 người. Cũng theo tài liệu của Hồng Thập Tự Quốc Tế, thì từ năm 1977-1983 đã có khoảng 290.000 người đã chết hay mất tích trên biển Ðông.
Ngày 15-1-1990 khi mà Mỹ chuẩn bị bãi bỏ lệnh cấm vận và lập bang giao với VC, thì tại vùng biển Nakhon Si Thammarat, có 11 thi thể PHỤ NỮ VIỆT NAM, tất cả đều trần tuồng thê thảm, trôi tắp vào bờ. Theo Thiếu tá cảnh sát Thái Chumphol, người có trách nhiệm lập biên bản khám nghiệm, cho báo chí biết, thì tất cả các nạn nhân, có tuổi từ 18-20. Họ bị giết sau khi bị hải tặc Thái Lan hãm bức nhiều làn. Ðây cũng chỉ là một trong ngàn muôn thảm kịch máu lệ của thân phận VN, từ khi VC cưỡng chiếm được đất nước. Ðã có hằng triệu người chết trong lòng biển, khi tìm tới những địa danh Songkhia,, Pulau Tanga, Pulau Bidong, Galang.. Có nhiều cái chết của thuyền nhân thật tức tưởi và oan khiên, mà không bút mực nào viết cho nổi, chẳng hạn như Tàu của Chủ Khách Sạn “ Lộc Hotel “ ở An Ðông, chở trên 500 người, đi bán chính thức nhưng khi tới Gò Công thì bị gài bom nổ, chết sạch chỉ có tài công và 3 người may mắn sống sót. Tàu Lập Xương di bán chính thức ngày 22-1-1979, chở 200 người, cũng bị gài bom nổ ngoài biển, chỉ còn một vài người may mắn sống sót được Tàu Panama cứu đem vào trại Tị Nạn. Ðây cũng chỉ là một vài chuyện nhỏ trong ngàn muôn thảm kịch mà thuyền nhân, đã chịu từ khi phong trào vượt biển bùng nổ vào d0ầu năm 1977-1989.
Người vượt biển tìm tự do, ngoài sóng gió bão tố bất thường không biết trước, còn chịu thêm cảnh săn đuổi của công an, bộ đội biên phòng và ghe tàu đánh cá quốc doanh có trang bị súng máy và súng cá nhân. Nhưng hãi hùng nhất vẫn là Nạn Hải Tặc Thái Lan. Bọn này rất hung ác, tàn bạo, sau khi chận bắt thuyền vượt biển, chúng cướp giựt hết tất cả tài sản, đánh đập mọi người, hãm hiếp phụ nữ và bắn bỏ những ai muốn trốn hay chống lại. Sau đó để phi tang, chúng đốt thuyền cho chìm, giết hết đàn ông và bắt đem theo phụ nữ, hành lạc cho tàn tạ và đem về đất liền bán cho các động đĩ.
Câu chuyện của một chiếc tàu vượt biển lênh đênh sau 32 ngày bị hải tặc Thái Lan đánh cướp, chỉ còn có 52 người sống sót, thì gặp được Chiến Hạm USN. Dubuque, do Ðại Tá Alexander chỉ huy, nhưng bị từ chối không cứu vớt, khiến cho số người trên chết gần hết. Những người sống sót phải ăn thịt bạn bè để cầu sinh. Viên Ðại Tá Mỹ vô nhân đạo trên, bị Bộ Hải Quân Mỹ lột chức và truy tố ra Tòa Quân Sự.
Cũng do hằng ngàn câu chuyện đứt ruột của người vượt biển tìm tự do, mà nhân loại ngày nay có thêm một danh từ độc đáo “ Boat People “, giống như trước kia người Do Thái, qua cuộc hành trình tìm đường về đất hứa, cũng đã làm nảy sinh danh từ “ Holocaust “.Tuy nhiên, nếu đem so sánh, kể cả chuyện người Do Thái bị Ðức Quốc Xã tàn sát trong thế chiến 2, thì thảm kịch vượt biển của người VN trên biển Ðông, vẫn bi đát hơn nhiều.
Ngày nay, VC lại đem tình thương nhớ quê hương VN ra khuyến dụ người tị nạn, mong mọi người hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận nước thù nhà. Nhưng VC đã lầm, cho dù đã có nhiều người tị nạn trở về VN nhưng thực tế hầu hết chỉ vì gia đình. Sau đó ai cũng quay lại miền đất tự do, để chờ một ngày chính thức được theo sau gót voi của Quang Trung Ðại Ðế về giải phóng Thủ Ðo Sài Gòn-Huế-Hà Nội. Ngày đó chắc không xa, vì hiện nay cả nước đều biết chế độ cọng sản đã sụp đổ toàn diện, từ ý thức hệ, lãnh đạo, kể cả huyền thoại Hồ Chí Minh, cho tới đời sống tinh thần, kinh tế, xã hôi. Chính sự xét lại của đảng, đã minh chứng sự sụp đổ trên.
Thân phận người “Thuyền Nhân” VN là thế đó, tại sao ngày nay lại có một số người đòi bỏ danh từ “Ti Nạn Việt Cộng” ?, để đồng hóa chúng ta thành kẻ di dân vì miếng cơm manh áo, trong lúc đó thật sự chúng ta chỉ bỏ nước ra đi để tị nạn chính trị, vì không thể nào sống nổi dưới chế độ cầm thú bất nhân vô tổ quốc của VC.