Đã từ lâu. Chính xác là từ bao giờ thì tôi không nhớ rõ. Tôi chỉ luôn cảm thấy có một việc cần mà mình chưa làm. Cái việc
không rõ ràng đó ngày càng báo động sự trễ muộn lũy tiến, làm cho tôi ngày càng không thoải mái trong đời sống. Đêm nằm
xuống giường thường tính kỹ là mình chỉ ngủ được có bốn tiếng là tới giờ phải dậy; thôi ráng ngủ đi, đừng nghĩ mông lung nữa
cho kẻ thù cười chê – là lúc tôi liếc mắt qua cái đồng hồ báo thức. Chắc chắn có một ngày tôi ném kẻ thù này vô sọt rác, vì tôi
ghét kẻ áp đặt. Nhưng tên áp đặt mà tôi phải đi mua này lì lợm và kiên nhẫn như một cái đồng hồ. Nó đại diện cho thời gian
nên bất tử; còn tôi thì biết mờ mắt theo năm tháng. Tôi đặt hàng từ một ông bạn có thú đi mua đồ garage sale. Thế là tôi có kẻ
thù lớn hơn, sáng tới khỏi để đèn ngủ, không cần đeo kính cũng thấy giờ giấc rõ ràng giữa nửa đêm tỉnh giấc.
Có đêm thao thức với lòng bất an, tôi cứ tưởng cái việc cần làm mà mình chưa làm là đập vỡ mặt cái đồng hồ báo thức; kẻ áp
đặt nhỏ bé mà tôi ghét nhưng phải đi mua năm xưa, nay hắn không già mà trẻ ra, số lớn hơn, sáng rực cả cái phòng ngủ thứ
ánh sáng màu xanh nước biển.
Tôi hết chịu nổi sự hiện hữu của cái đồng hồ báo thức trong phòng ngủ vì tôi đặt lưng lên giường, liếc mắt xem bốn số digital
màu xanh nước biển tổ chảng đã hơn hai giờ khuya. Vậy mà ba giờ sáng là nó tít tít… báo thức.
Tôi tóm cổ nó, úp mặt nó vô tường như tôi thường bị phạt hồi nhỏ. Cơn giận làm tôi khó thở, thèm ngụm nước. Tôi lò dò trong
bóng tối của căn nhà để đi uống nước. Cũng vẫn là ánh sáng màu xanh nước biển của đèn digital hắt ra từ cửa tủ lạnh. Tôi
muốn đập nát cánh cửa tủ lạnh để không phải thấy thứ ánh sáng màu xanh nước biển đáng ghét đó nữa. Nhưng nhìn quanh thì
trên cái bếp – cũng thứ ánh sáng ấy; trên microwave cũng thứ ánh sáng ấy; trên cái nồi nấu cơm cũng thứ ánh sáng ấy; trên
cái máy nước nóng để pha trà, pha cà phê – cũng thứ ánh sáng ấy… tất cả đều là màu xanh nước biển; đều là những con số
digital. Điểm khác nhau là lớn, nhỏ. Nhưng điểm giống nhau là chúng chỉ giờ!
Tôi đã mò ra tới garage, ngồi xuống cái ghế mà tôi thường ngồi để mang giày, cởi giày. Nơi xung quanh tôi là tiện nghi của
nước Mỹ. Bên phải là cửa vào phòng giặt, qua một cửa nữa là lối đi vào những phòng ngủ phụ – bên trái; bên phải là lối thông
qua một phòng ngủ nữa rồi tới nhà bếp, có cửa ra patio và sân sau nhà bên phải, bên trái là phòng ngủ của tôi; nếu đi thẳng
qua bếp sẽ là phòng khách; cuối vách đối diện lò sưởi có hai cánh cửa lớn nhưng không khép bao giờ là phòng làm việc của
tôi. Tôi hình dung ra được cấu trúc của ngôi nhà – nghĩa là tôi còn tỉnh táo. Nên tôi mở laptop trên cái ghế đẩu cao hai feet,
trước ghế cởi giày cao một feet. Đó chỉ là thói quen hơn sự cần thiết – nên chả thèm để mắt tới góc đông nam của màn hình
bao giờ cũng có số digital chỉ giờ. Tôi quay qua bên phải của ghế cởi giày mới là cần thiết hơn thói quen. Trên cái khăn lông
cũ, nhỏ nhắn, trải trên một góc kệ để đồ vớ vẩn ngoài garage. Nhưng nó chứa hết sự tội lỗi của đời này. Tôi bốc gói thuốc lá
trước, kế đến là cái quẹt; tiếptheo là cái phone – cũng không thèm để mắt tới góc đông bắc của cái phone luôn dính chặt hàng
số digital chỉ giờ. Không lẽ đập nốt cái laptop với phone để thôi ám ảnh khái niệm giờ giấc ở Mỹ; cái khái niệm làm ra tội lỗi từ
nhẹ là nói dối tới nặng là chết người…
Tôi phạm tội nhẹ trước là gởi ra tin nhắn cho bạn bè mới vừa chia tay, “Toi da ve toi nha binh an. Mong anh em cung vay!” Tin
nhắn thứ hai được gởi ra cho người bạn làm chung, “Tao moi ve toi nha! Xin loi may lam mot minh di… Nhung noi sep dum
tao…”
Có lẽ do suy nghĩ bên phải bao giờ cũng là điều sai trái nên tôi còn để trên cái khăn lông cũ một chai cognac với cái chung kỷ
niệm của một người bạn tặng cho. Chỉ là cái chung bằng thủy tinh trong veo, nhỏ bé, để uống rượu. Nhưng khi rót rượu vào thì
mỹ nữ hiện ra làm chứng cho câu thơ “thoáng hiện em về trong đáy cốc…”
Chắc thêm một shot cùng mỹ nhân nên tôi đã quên hết dãy số digital chỉ giờ mà bất cứ nơi đâu trong nhà, ngoài đường phố,
nơi đâu… cũng có; tôi phát minh ra phương thuốc trị liệu cho nỗi ám ảnh thời đại là cognacilline. Mỹ nữ cạn đêm sầu viễn
mộng rồi dang đôi tay gầy, thân nàng lại dài đòn như dreamliner 787. Nàng cất cánh hồi nào không biết; chỉ hay tôi đã về tới
nhà, bước qua bờ giậu râm bụt quanh năm bông đỏ. Ờ ha, con Huyền, con Thảo nhà bên, ưa vò lá râm bụt để làm sương sâm
chơi bán đồ hàng. Ly sương sâm giả mua bằng tiền là tờ giấy tập xé ra, tự ghi số một đồng lên đó để mua nỗi vẩn vơ tới già…
Dưới vòm khung gỗ làm cổng, hoa bông giấy leo dây tới đâu là bông đỏ tới đó. Khung gỗ không còn nữa mà thân dây bông
giấy đã già thành khung đón tôi về. Bậc tam cấp bước lên mảnh sân xi măng rộng lớn trước khi vô nhà. Bà vú già thường đem
xơ dừa, xách xô nước ra thềm rửa rêu xanh cho đừng ai trơn trợt; nhưng chùi rửa kỹ quá nên bà trượt chân luôn xuống mồ tự
bao giờ. “Vú ơi! Con đã về…!”
Sân xi măng rộng nhất xóm làng ngày xưa để phơi lúa, sao bây giờ nhỏ xíu như miếng gạch vụn thế này! Cái đường nứt chạy
dài suốt sân do xe nhà binh rầm rập chuyển quân ngoài lộ năm Mậu thân. Mấy thằng bạn nhỏ chơi cắm đầu đạn lửa xuống
đường nứt đó đêm đêm, đốt thay pháo bông. Tụi nó giờ nơi đâu, đứa nào còn, đứa nào đã mất…
Sao chỉ còn những đồ vật cũ kỹ, vô dụng, chất đống lên nhau sau hòa bình. Cái cối đá để xay bột gạo thành lâu đài của lũ gián
hôi vì gạo đã tan hàng, rã ngũ theo phe thua trận. Chiếc xe hơi bụi mờ trên bốn tảng đá xanh thay vì bánh xe. Bố tôi cấy đá cho
cái xe hóa thạch nhưng sắt thép chỉ biết gỉ sét. Buồn cười nhất là khung len của mẹ. Từ hồi được chế ra, nó đã yếu đuối,
nhưng mưa nắng ngoài sân lại chứng minh cho nó kiên cường là xiêu vẹo chứ nhất định không tan rã… Hèn gì những giáo
dục cứng rắn của bố thì hoen gỉ mà những thỏ thẻ của mẹ thì còn hoài.
Con mực lấp ló sau cây mãng cầu. Con chó quên chủ thì phải ăn chai nước trắng mà tôi ném vô đầu nó. Nhưng nó gầm lên
tiếng sư tử. Thì ra con sư tử đồng đen trên bàn làm việc của bố tôi – như biểu tượng của thời oanh liệt theo thời gian đã thành
con chó quên chủ ngậm ngùi ngoài gốc cây.
Tôi nhìn quanh hoang địa điêu tàn, lá chầm giuộc to hơn xưa nhưng nhà không còn trẻ để mừng rỡ hái được cái lá chầm giuộc
to thì vấn được cái kèn lá kêu tới bờ sông cũng nghe… Hoa lẻ bạn phất phơ trong gió, cái bờ mương cá rủ nhau về trong vắt
thời gian…
Tôi đã về đến nhà. Những đổi thay chỉ có ý nghĩa thời gian. Và tôi, kẻ làm lại từ đầu kiêu hãnh nhất nên không sợ khó. Chỉ là ai
sẽ ra cửa đón tôi? Bố tôi đã chết trong tù sau hòa bình; mẹ tôi đã chết trong chờ đợi nên bếp không lên khói bữa cơm chiều.
Tôi mất cảm giác thân thuộc, sự thoải mái khi về nhà. Tâm trạng tôi trở nên bối rối khi tất cả trong mắt cứ lạnh lùng đứng bên
nhau. Có điều tôi đã biết, nhưng quá ít với điều chưa từng biết khi tiếp xúc với quá khứ. Tôi biết hưởng thụ từ dĩ vãng một
chiều.
Tôi đưa tay lên ba lần nhưng vẫn chưa gõ cửa quá khứ, vì không còn ai để đón mừng tôi nữa! Tôi chỉ lắng nghe tiếng tích tắc
của chiếc đồng hồ treo tường vọng lại thời thơ ấu, dù chỉ nghe trong ý nghĩ. Bất cứ điều gì đang xảy ra bên trong là bí mật của
căn nhà không còn nữa. Càng ngần ngừ ngoài cửa nhà chừng nào, cảm giác xa lạ càng mãnh liệt chừng ấy. Tôi hoảng sợ
cánh cửa ấy mở ra, người mở cửa sẽ biết được bí mật của tôi.
Còn tôi thì biết được cái việc luôn cảm thấy cần làm là hoang tưởng, là cuộc trở về căn nhà tuổi nhỏ vì tôi chỉ còn tuổi già. Và
đã tự nguyện sống với hàng số digital chỉ giờ mà đâu cũng có tới ít thấy đàn ông bây giờ đeo đồng hồ, dù ai cũng có vài cái để
trên bệ lò sưởi, hay hộc tủ bàn đánh răng…
Thì ra, tôi đã bán linh hồn cho màu xanh nước biển của hàng số digital chỉ giờ khắp nơi; bán tiếng vọng từ trong nội ngã cho
tiếng phôn reo…! “Dậy chưa cha nội, tỉnh chưa? Vô làm, chứ bỏ mình tôi đặng sao…?”
Cú ngủ ngồi trên ghế cởi giày được hai tiếng. Mới năm giờ sáng nên cũng chưa ai dậy, nên bí mật của tôi còn nguyên tới ngày
nào bật mí hẵng hay…
Phan