Việc phản đối các cuộc khảo sát của Đức Tuy nhiên, Samuels (p. 52) cho rằng có thể xem Trung Quốc đã ngầm yêu sách quần đảo Trường Sa từ năm 1883 khi (theo trình bày của ông) chính phủ nhà Thanh chính thức phản đối đoàn khảo sát (có nhà nước bảo trợ) Đức tới quần đảo Trường Sa. Khẳng định này lấy nguồn từ số tháng 5 năm 1974 của tạp chí tháng Ming Pao của Hong Kong mà không có bằng chứng bổ trợ nào khác. Chiu và Park (trong chú thích 47) quy nó về một bài báo trong Wai Jiao Yue Bao năm 1933, tức viết ra sau sự kiện đang nghi vấn này những 50 năm,[36] Heinzig cũng trích dẫn cùng số Ming Pao mà Samuels dựa vào để nói rằng đoàn khảo sát Đức năm 1883 thực sự đã rút đi sau khi có phản đối của Trung Quốc.
Điều khẳng định này có vẻ rất khó xảy ra bởi vì các nhà khảo sát Đức đã lập bản đồ quần đảo Hoàng Sa (không phải Trường Sa) từ năm 1881 đến năm 1883, hoàn tất công việc và sau đó đã xuất bản một hải đồ. Ấn bản tiếng Pháp của hải đồ đó được xuất bản năm 1885.[37]
Công ước Pháp-Thanh [Sino-Tonkin] 1887Samuels lập luận rằng công ước Pháp -Thanh 1887 do chính phủ Pháp đàm phán, trên danh nghĩa là thay mặt cho cho Bắc Kỳ [Tonkin], cho ra một thỏa thuận quốc tế phân các đảo này [Hoàng Sa và Trường Sa] cho Trung Quốc (p. 52). Điều 3 của Công ước quả thực có phân các đảo phía Đông kinh tuyến Paris 105° 43' cho Trung Quốc. Nhưng Samuels và các tác giả khác không để ý rằng Công Ước này áp dụng cho Bắc Bộ - khu vực phía Bắc của vùng đất bây giờ là Việt Nam và do đó chỉ có thể liên quan đến các đảo trong Vịnh Bắc Bộ. Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm lệch xa về phía Nam trong khu vực mà lúc đó là lãnh địa của An Nam (Trung Kỳ) và Nam Kì không thuộc phạm vi của Công Ước.
Bí ẩn của chuyến đi năm 1902Ngoài ra còn xuất hiện một số nhầm lẫn về thời gian của chuyến đi đầu tiên của các quan chức Trung Quốc tới quần đảo Hoàng Sa. Samuels (p. 53), tin vào của bài viết trên Ming Pao năm 1974, cho chuyến đi đó là vào năm 1902 với chuyến đi thứ hai vào năm 1908. Austin và Dzurek viết theo Samuels trong sự việc này. Li và Tan (2014) cũng khẳng định là năm 1902, cùng với một chuyến đi riêng biệt khác vào năm 1907. Cheng cho nó là vào năm 1907, dựa trên một số tài liệu tham khảo năm 1933[38] như Chiu và Park đã làm, hai tác giả này dẫn một ấn bản năm 1933 của Kuo-wen chou -pao.[39] Tuy nhiên, trái ngược với các tường thuật này, được viết sau cái cho là các sự kiện mà họ định mô tả tới 26 và 72 năm, việc khảo sát báo chí cùng thời đó cho thấy khá rõ rằng các chuyến đi diễn ra vào năm 1909.
Có lý do chính đáng cho sự nhầm lẫn về chuyến đi năm 1902 này. Vào tháng 6 năm 1937, trưởng khu hành chính số 9 của Trung Quốc, Huang Qiang đã được phái đến quần đảo Hoàng Sa thực hiện một nhiệm vụ bí mật - một phần là để kiểm tra xem có hoạt động của người Nhật trên các đảo hay không.
Nhưng ông cũng có một nhiệm vụ khác - mà một phụ lục bí mật kèm báo cáo của ông cho thấy rõ. Một đoạn trích của phụ lục này đã được Ủy ban Địa Danh Tỉnh Quảng Đông in lại vào năm 1987.[40] Tàu của ông chở theo 30 cột mốc (marker) bằng đá - một số ghi năm 1902, một số ghi năm 1912 và một số khác ghi năm 1921. Trên Cồn Bắc, họ chôn 2 cột ghi năm 1902 và 4 cột ghi năm 1912; trên Đảo Linh Côn (Lincoln), toán công tác chôn 1 cột ghi năm 1902, 1 cột ghi năm 1912 và 1 cột ghi năm 1921 và trên đảo Phú Lâm, 2 cột ghi năm 1921. Cuối cùng, trên Đảo Đá (Rocky), họ chôn 1 cột mốc duy nhất ghi năm 1912.
Các cột mốc này bị quên lãng cho mãi đến năm 1974 khi mà, sau trận đánh Hoàng Sa, chúng được tìm thấy và ‘khám phá’ này được làm ầm ĩ trên báo chí Hồng Kông - như Ming Pao. Chuyến đi năm 1902 không hề tồn tại này sau đó lại đi vào sử sách. Chỉ tới bây giờ nó mới bị nhà địa lý học người Pháp làm việc ở Manila Francois-Xavier Bonnet vạch trần.[41]
Tên các đảoTrong bài viết năm 1997, Shen khẳng định Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ‘thẩm tra lại tên các đảo ở biển Nam Trung Quốc’ năm 1932. Trên thực tế ủy ban chính phủ đó chỉ đơn giản dịch hay phiên âm tên Tiếng Anh hoặc tên quốc tế hiện có. Kết quả là một số trong những cái tênTiếng Trung tiếp tục vinh danh các nhà khảo sát Anh vốn lập bản đồ các thể địa lý này lần đầu tiên. Trong quần đảo Hoàng Sa có Ling yang Jiao [Linh Dương Tiêu] - dịch từ Antelope Reef (Đá Hải Sâm) - vốn được đặt tên theo một tàu khảo sát Antelope của Anh. Jin Yin Dao [Kim Ngân Đảo] - Money Island (Đảo Quang Ảnh) - không phải được đặt tên theo tiền và bạc - mà theo tên tổng giám sát William Taylor Money của Bombay Marine - đoàn tàu của Công ti Đông Ấn.
Phản đối ngoại giao năm 1933?Một lập luận vốn là chìa khóa cho yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa là việc khẳng định thường được lặp đi lặp lại rằng Trung Hoa Dân Quốc đã chính thức phản đối Chính Phủ Pháp sau khi nước này chính thức sáp nhập một số thể địa lý trong quần đảo Trường Sa vào ngày 26 tháng 7 năm 1933. Điều chắc chắn đúng là sự sáp nhập gây kinh ngạc trong chính phủ và nỗi tức giận dân tộc chủ nghĩa trong công chúng. Tuy nhiên, có chăng một phản đối chinh thức đã được đưa ra?
Tao Cheng, trong bài báo năm 1975, dẫn một bài viết trong Xin Ya Ya Xi Yue Kan [Hsin-ya-hsi-ya Yueh kan (Tân Á Tế Á Nguyệt San)], ra hai năm sau đó, năm 1935.[42] Chiu và Park nêu trong một chú thích rằng “có bằng chứng rằng Trung Quốc cũng phản đối.” Họ tham khảo bài viết của Cho Min trong Wai-Chiao Yueh-pao [Ngoại Giao Nguyệt Báo],[43] và một cuốn sách Nan-hai-chu tao ti-li chih- lūeh [Nam Hải chư đảo địa lí chí lược] năm 1948 của Cheng Tzu-Yueh.[44]
Tuy nhiên, họ thừa nhận rằng “Ngày Trung Quốc đưa ra phản đối không có nêu trong cuốn sách của Cheng, và cũng không được nói tới trong ‘Bản ghi nhớ về bốn quần đảo lớn của nước Trung Hoa Dân Quốc ở Biển Đông’ do Bộ Ngoại Giao Trung Hoa Dân Quốc công bố vào tháng 2 năm 1974. Xem Lien-ho-pao [联合报 (Liên Hiệp Báo)], ấn bản nước ngoài, 25 tháng 2 năm 1974, p. 3.”
Điều khẳng định này xuất hiện trong bài thuyết trình của Đại Sứ Freeman và trong bài của CNA - bài này trích dẫn Shen. Trong bài báo năm 1997, Shen trích dẫn hai nguồn: Cheng, và Chiu và Park - nhưng như chúng ta đã thấy - các tác giả này không nêu ra bất kỳ tài liệu tham khảo nào cho khẳng định của mình. Trong bài báo năm 2002, Shen dẫn các bài viết của hội nghị chuyên đề của Cục Hải Dương Quốc Gia.[45] Những bài viết này không tìm thấy bên ngoài Trung Quốc, nhưng có bằng chứng tốt rằng tất cả các công trình này đều chỉ đơn giản là sai.
Francois-Xavier Bonnet đã tìm được hồ sơ của Mỹ cho thấy rằng ngay sau công bố của Pháp chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu viên lãnh sự ở Manila, ông Kuan-ling Kwong đến hỏi chính quyền thực dân Mỹ về bản đồ có vẽ vị trí của các đảo đó. Chỉ sau đó chính phủ ở Nam Kinh mới hiểu được rằng những đảo này không thuộc quần đảo Hoàng Sa và sau đó đã quyết định không đưa ra bất kỳ phản đối chính thức nào.[46]
Theo Bonnet, nguyên do của việc này có thể thấy rõ từ biên bản của cuộc họp của Hội đồng quân sự Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 1 tháng 9 năm 1933, “Tất cả các nhà địa lý chuyên nghiệp của chúng ta nói rằng Đảo Tri Tôn [thuộc Hoàng Sa] là đảo cực nam của lãnh thổ của chúng ta.”[47] Trung Hoa Dân Quốc quyết định rằng họ không có yêu sách trong quần đảo Trường Sa vào thời điểm đó và do đó không có gì để phản đối.
Nghiên cứu của Chris Chung, một nghiên cứu sinh người Canada, đã phát hiện ra rằng cho tới năm 1946, các hồ sơ của Trung Hoa Dân Quốc đã dẫn chứng việc Trung Quốc phản đối chính thức vào năm 1933 như thể nó là có thật. Điều này sau đó đã trở thành cách biện minh của Trung Quốc cho việc ‘đòi lại’ những đảo này từ tay Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai.[48]
Tóm lại, những gì có vẻ như đã xảy ra là hơn 13 năm sau khi Pháp sáp nhập các đảo, một hiểu biết khác biệt về những gì đã xảy ra vào năm 1933 đã bám cứng trong giới cầm quyền Trung Hoa Dân Quốc. Theo tôi đoán, các quan chức Trung Quốc nhầm lẫn một phản kháng có thật năm 1932 về hoạt động của Pháp ở quần đảo Hoàng Sa với một phản kháng năm 1933 không hề tồn tại về quần đảo Trường Sa.
Các cuộc khảo sát trong thập niên 1930Trong bài báo năm 2002, Shen cho rằng Trung Hoa Dân Quốc, “đã tổ chức ba đợt khảo sát quy mô lớn cùng các hoạt động đặt tên lại tương ứng vào năm 1932, 1935 và 1947” (p.107) nhưng không có công việc khảo sát nào đã được thực hiện ở quần đảo Trường Sa mà chỉ là việc sao chép lại bản đồ quốc tế. Điều này có vẻ là lý do tại sao Trung Hoa Dân Quốc đã dịch sai tên của James Shoal [Bãi Ngầm James] - ban đầu gọi nó Zengmu Tan [曾母滩Tăng Mẫu Than)]. Zeng-mu chỉ đơn giản là phiên âm của từ James. Tan [滩 (than)] có nghĩa là bãi cát, trong khi thực tế thì ‘shoal’ là bãi ngầm. Qua việc dịch sai đơn giản này một mảnh đáy biển đã trở thành một đảo và được coi là lãnh thổ cực nam của Trung Quốc cho đến tận hôm nay - dù nó không tồn tại! Những cái tên đó đã được Trung Hoa Dân Quốc sửa đổi lại năm 1947 (lúc đó Zengmu Tan trở thành Zengmu Ansha - [暗沙 (ám sa: rạn san hô ngầm)]) và Trung Quốc chỉnh lại một lần nữa năm 1983.[49]
Tuyên bố CairoShen (2002 p. 139), và Li và Tan (2014 ) lập luận theo đúng Bộ Ngoại giao Trung Quốc rằng theo Tuyên bố Cairo 1943, các đồng minh thời chiến đã trao các đảo ở Biển Đông cho Trung Quốc. Bài của CAN bàn luận về khẳng định này và rạch ròi bác bỏ nó trên cơ sở rằng,
"Tuyên bố Cairo, như được củng cố bởi Tuyên Ngôn Potsdam , chỉ quy định rằng Trung Quốc sẽ thu hồi lại Mãn Châu, Formosa [Đài Loan], và Pescadores [Quần đảo Bành Hồ] sau chiến tranh. Câu tiếp theo chỉ đơn giản nói rằng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi các ‘vùng lãnh thổ khác’ mà họ đã chiếm bằng bạo lực, nhưng không chỉ ra rằng những ‘vùng lãnh thổ khác’ đó sẽ được trả lại cho Trung Quốc. Dù không được nêu cụ thể, kết luận hợp lý duy nhất là những ‘vùng lãnh thổ khác’ bao gồm cả quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, vốn đã bị đoạt lấy bằng bạo lực từ tay Pháp chứ không phải từ tayTrung Quốc.” (p. 97)
Tuy nhiên, Freeman (2015) lập luận rằng vì nhà chức trách Nhật Bản sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào tỉnh Đài Loan nên Tuyên bố Cairo trả chúng cùng với phần còn lại của ‘Tỉnh Đài Loan’ về cho Trung Quốc. Nhưng Tuyên bố không đề cập đến từ ‘Đài Loan.’ Nó nói về Formosa và Pescadores. Kết luận hợp lý là đồng minh chỉ đồng ý rằng hai quần đảo cụ thể này [Formosa và Pescadores] sẽ được trả lại cho Trung Quốc.
Nhật Bản đầu hàng ở quần đảo Hoàng SaCả bài của CNA lẫn bài thuyết trình của Đại Sứ Freeman đều chuyển tải khẳng định rằng quân đội Trung Quốc tiếp nhận sự đầu hàng của các đơn vị của Nhật Bản trú đóng tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào cuối Thế Chiến thứ hai. Freeman lập luận rằng Hải Quân Mỹ thực sự đã chở lực lượng Trung Hoa tới hai quần đảo đó cho mục đích này. Trong trao đổi riêng với tác giả, ông đã không thể cung cấp bất kỳ bằng chứng hổ trợ nào cho khẳng định đó.
Dựa trên những bằng chứng từ kho lưu trữ của quân đội Mỹ và Úc, khẳng định đó khó có vẻ là sự thật. Trong chiến tranh, Nhật Bản đã có các căn cứ quân sự trên Đảo Hoàng Sa (Pattle) và Phú Lâm (Woody) thuộc quần đảo Hoàng Sa và Đảo Ba Bình (Itu-Aba) thuộc quần đảo Trường Sa. Đảo Phú Lâm bị tàu ngầm USS Pargo pháo kích ngày 6 tháng 2 năm 1945[50] và ngày 8 tháng 3 máy bay Mỹ ném bom đảo này cùng với Đảo Hoàng Sa.[51] Khi tàu ngầm USS Cabrilla ghé Đảo Phú Lâm vào ngày 2 tháng 7, cờ tam tài [ba màu] của Pháp còn đang treo, nhưng lúc đó cũng có với một lá cờ trắng [mặt trời] ở trên nó.[52]
Ba Bình đã bị máy bay Mỹ ném bom xăng ngày 1 tháng 5 năm 1945. Sáu tháng sau đó, Hải Quân Mỹ đã phái một toán trinh sát đến Ba Bình. Toán này đổ bộ lên đảo ngày 20 tháng 11 năm 1945 và nhận thấy đảo không người - người Nhật đã bỏ đi.
Mãi cho đến hơn một năm sau đó - tháng 12 năm 1946 mới có một phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc dùng tàu chiến cũ của Mỹ (vừa được chuyển cho Hải Quân Trung Hoa Dân Quốc) mới có thể đi tới được đảo này. (Hai tháng trước đó người Pháp đã đến và khẳng định lại chủ quyền đảo này nhưng điều này hiếm khi được đề cập trong các nguồn Trung Quốc.) Tên tiếng Trung của Ba Bình là Taiping Dao (Thái Bình Đảo), được đặt theo tên tàu chiến chở phái đoàn này. Tàu Taiping trước đây là tàu USS Decker. Điều trớ trêu là nếu như Hoa kỳ không cung cấp những tàu chiến đó thì Trung Quốc sẽ không có yêu sách nào trong quần đảo Trường Sa hiện nay.
Kết luậnViệc xem xét lại các bằng chứng kiểm chứng được cho thấy một lịch sử về các đảo ở Biển Đông khác biệt với lịch sử có trong hầu hết các tài liệu tham khảo thường được sử dụng. Nhà nước Trung Quốc chỉ bắt đầu quan tâm tới các đảo này từ thế kỷ 20. Chưa có bằng chứng nào về việc có viên chức nhà nước Trung Quốc đến quần đảo Hoàng Sa trước ngày 6 tháng 6 năm 1909 đã được đưa ra. Chỉ trong năm 1933 sự chú ý của quốc gia mới chuyển sang quần đảo Trường Sa - và tại thời điểm đó Trung Hoa Dân Quốc đã quyết định không cố yêu sách quần đảo này. Sự chú ý đã được hồi sinh ngay lập tức sau Thế Chiến thứ hai, dựa trên những hiểu lầm về những gì xảy ra vào năm 1933 và lần đầu tiên trong lịch sử một quan chức Trung Quốc đặt chân lên quần đảo Trường Sa vào ngày 12 tháng 12 năm 1946.
Năm 1933, 1956, 1974 và hiện nay cũng vậy lịch sử về các đảo này được viết và viết lại. Trong mỗi cuộc khủng hoảng, những kẻ ủng hộ lập trường của Trung Quốc lại công bố những phiên bản mới của lịch sử vốn vẫn tái chế những sai lầm trước đó và đôi khi lại thêm vào trong đó nhiều sai lầm mới của chính họ. Khi mà các cách nhìn nhận này vượt qua rào cản ngôn ngữ nhảy sang tiếng Anh vào giữa thập niên 1970, nền móng lung lay của chúng lại có vẻ rắn chắc đối với những người mới tìm tòi lịch sử lần đầu. Chúng đã được in trên các tạp chí học thuật Phương Tây và ‘trở thành sự thật.’ Nhưng việc xem xét lại các nguồn của chúng làm lộ ra điểm yếu cố hữu của chúng.
Không còn đủ thuận lợi cho những kẻ ủng hộ yêu sách của Trung Quốc dùng những bằng chứng vô căn cứ như vậy làm cơ sở cho lập luận của mình. Đã tới lúc cần thực hiện một một nỗ lực phối hợp để xem xét lại các nguồn thông tin gốc đối với phần lớn các khẳng định được các tác giả này đưa ra cũng như đánh giá lại độ chính xác của chúng. Việc giải quyết các tranh chấp phụ thuộc vào đó - cả trong phòng xử án ở The Hague lẫn trong các vùng nước của Biển Đông.
Bill HaytonCựu phóng viên BBC Bill Hayton là tác giả của The South China Sea: the struggle for power in Asia,’ (Biển Đông: cuộc tranh giành quyền lực ở Châu Á), gọi là cuốn sách đầu tiên đưa ra ý nghĩa rõ ràng về các tranh chấp ở Biển Đông.
Bản tiếng Việt: Phan Văn Song
viet-studies.info/kinhte/BillHayton_QuanTrongCuaBangChung.htm
___________
Chú thích:
(Các chú thích do chính tác giả gửi riêng cho người dịch)
[1] Li Dexia and Tan Keng Tat, South China Sea Disputes: China Has Evidence of Historical Claims. RSIS Commentary 165 dated 15 August 2014 Available at
http://www.rsis.edu.sg/w...ads/2014/08/CO14165.pdf. See also Li Dexia, Xisha (Paracel) Islands: Why China’s Sovereignty is ‘Indisputable’. RSIS Commentary 116 dated 20 June 2014. Available at
http://www.rsis.edu.sg/w...oads/2014/07/CO14116.pdf [2] Charles Freeman, Diplomacy on the rocks. Remarks at a Seminar of the Watson Institute for International Studies, Brown University 10 April 2015.
http://chasfreeman.net/d...-in-the-south-china-sea/ [3] Pete Pedrozo, China versus Vietnam: An Analysis of the Competing Claims in the South China Sea, Center for Naval Analyses, August 2014. Available at
http://www.cna.org/sites...ch/IOP-2014-U-008433.pdf[4] Hungdah Chiu & Choon‐Ho Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development & International Law, 3:1, 1-28.
[5] Marwyn S. Samuels, Contest for the South China Sea, Methuen New York, 1982.
[6] Greg Austin, China’s Ocean Frontier: International Law, Military Force, and National Development. Allen & Unwin, 1998
[7] Jianming Shen, International Law Rules and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea Islands, 21 Hastings International and Comparative Law Review. 1‐75 (1997‐1998).
[8] Jianming Shen, China’s Sovereignty over the South China Sea Islands: A Historical Perspective, CHINESE JIL (2002), pp. 94‐157
[9] Brian K. Murphy, Dangerous Ground: the Spratly Islands and International Law, Ocean and Coastal L.J. (1994), pp. 187–212
[10] Chi-kin Lo, China's Policy Towards Territorial Disputes: The Case of the South China Sea Islands. Routledge 1989
[11] Cheng Huan, A matter of legality. Far Eastern Economic Review. February 1974
[12] Chi-Kin Lo, China’s Policy Towards Territorial Disputes. Routledge, London. 1989
[13] Tao Cheng, Dispute over the South China Sea Islands, Texas International Law Journal 265 (1975)
[14] Chiu & Park (1975) ibid
[15] Dieter Heinzig. ‘Disputed islands in the South China Sea: Paracels, Spratlys, Pratas, Macclesfield Bank’ Institut für Asienkunde (Hamburg). 1976
[16] Wai-chiao p'ing-lun [Ngoại Giao Bình Luận], Shanghai, vol. 2, no. 10 (October 1933), pp. 64-65
[17] Wai-chiao yüeh-pao [Ngoại Giao Nguyệt Báo]], vol 3, no. 3 (Peiping [Peking], September 15, 1933), p. 78
[18] Fan-chih yüeh-k'an [Phương Chí Nguyệt San], vol. 7, no. 4 (Nanking, April 1, 1934), p. 2
[19] Wai-chiao-pu kung-pao, [Công Báo Bộ Ngoại Giao] vol 6, no. 3 (July-September 1933), p. 208
[20] Cheng Tzu-yüeh, Nan-hai chu-tao ti-li chih-lūeh [Nam Hải Chư Đảo Địa Lí Chí Lược] (Shanghai: Shang-wu ying-shu-kuan, 1948).
[21] Tuyên bố do Bộ Ngoại Giao Trung Hoa Dân Quốc đưa rangày 10 tháng 6 năm 1956, tóm lược trong “Vietnamese Claim of Sovereignty Refuted," Free China Weekly, June 26, 1956, p. 3; Chung-yang jih-pao, June 11, 1956, p. 6; Shao Hsun-cheng, "Chinese Islands in the South China Sea," People's China, no. 13 (Peking, 1956) Foreign Languages Press
[22] Lien-ho-pao [United daily news], overseas edition, February 25, 1974, p. 3; "Memorandum on Four Large Archipelagoes," ROC Ministry of Foreign Affairs (February 1974).
[23] Ming Pao (nguyệt san) No. 101 May 1974
[24] Marwyn S. Samuels, Contest for the South China Sea’, Methuen, New York. 1982
[25] Chris P.C. Chung, “Since Time Immemorial”: China’s Historical Claim in the South China Sea. MA Thesis, University of Calgary, September 2013. p8
[26] PRC Ministry of Foreign Affairs, China’s indisputable sovereignty over the Xisha and Nansha islands, Beijing Review Vol. 23 No.7 1980 pp15-24
[27] Lin Jinzhi, Renmin Ribao (People’s Daily) 7 April 1980. FBIS-PRC-80-085 30 April 1980 p.E6
[28] Duanmu Zheng ed. Guoji Fa (International Law) Peking University Press, Beijing 1989
[29] Điều đáng lưu ý là Duanmu không phải là đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc mà là thành viên của Liên Đoàn Dân Chủ Trung Quốc. Colin Mackerras, The New Cambridge Handbook of Contemporary China. Cambridge University Press, 2001 p85.
[30] Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal. Discussion Paper #14. IRASEC (Research Institute on Contemporary Southeast Asia), Bangkok. November 2012
[31] Ulises Granados, As China Meets the Southern Sea Frontier: Ocean Identity in the Making, 1902-1937. Pacific Affairs Vol. 78, No. 3 (Fall, 2005), pp. 443-461
[32] Xem, đặc biệt là, Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline. Modern Asian Studies. Vol 40, Issue 01. February 2006, pp 1-57 and An International History of the Dispute in the South China Sea, East Asia Institute Working Paper No. 71 (2001)
[33] The Times “Chinese foreign relations” Jan 18, 1908; pg. 5; The Times “The recent piracy in Canton waters”. Jan 25, 1908; pg. 5
[34] The Examiner (Launceston, Tasmania) “China and her islands-keeping an eye on foreign nations” Saturday 12 June 1909 p 8
[35] Xem Granados (2005) phía trên.
[36] Điều này được chính quyền Tỉnh Quảng Đông tiết lộ năm 1933. XemCho Min, "The Triangular Relation- ship Among China, France and Japan and the Question of Nine Islands in South Sea," Wai-chiao yüeh-pao [Ngoại Giao Nguyệt Báo], Vol 3, no. 3 (Peiping [Peking], September 15, 1933); p. 82, note 4.
[37] Hydrographic Office, The Admiralty, The China Sea Directory, Vol. 2, London, 1889, p.103. Quoted in Bonnet 2012
[38] Tham khảo của Cheng: Saix, Iles Paracels, La Geographie (Nov.-Dec. 1933), reprinted in 3 Wai Chiao Ping Lun (Foreign Affairs Review), No. 5 (Hu Huan-Yung Chinese transl. May 1934), at 65-72;, at 67; Hu, Fa-jen Mou-tuo Hsi-Sha Ch’ün-tao [The French Plot to Snatch the Paracel Islands], 3 Wai Chiao Ping Lun (Foreign Affairs Review), No. 4 (April 1934), at 92.
[39] "On Li Chun's Patrol of the Sea"(Về chuyến tuần tra của Lí Chuẩn) Kuo-wen chou-pao [National news weekly], vol. 10, no. 33 (August 21, 1933), p. 6.
[40] Committee of Place Names of the Guangdong Province [Guangdong sheng di ming wei yuan hui (Quảng Đông Tỉnh địa danh uỷ viên hôi)], Compilation of references of the names of all the South Sea islands [Nan Hai zhu dao di ming zi liao hui bian (Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên)], Guangdong Map Publishing Company [Guangdong sheng di tu chu ban she], 1987, p.289
[41] Bài viết do Francois-Xavier Bonnet trình bày tại the Southeast Asia Sea conference, Ateneo Law Center, Makati, Manila. March 27 2015. (Tường thuật có ở đây:
http://opinion.inquirer....-manipulating-the-record)
[42] Lu, Hsi-sha Ch'iin-tao Chih-yao [Tây Sa Quần đảo Sơ yếu], 9 Hsin Ya Hsi Ya Yueh Kan No. 6 (June 1935), at 50-54.
[43] Cho Min, "The Triangular Relationship Among China, France and Japan and the Question of Nine Islands in South Sea," Wai-chiao yüeh-pao [Ngoại Giao Nguyệt Báo], vol 3, no. 3 (Peiping [Peking], September 15, 1933), p. 78.
[44] Cheng Tzu-yüeh [Trịnh Tư Ước], Nan-hai chu-tao ti-li chih-lūeh [Nam Hải chư đảo địa lí chí lược] (Shanghai: Shang-wu ying-shu-kuan, 1948), p.80
[45] Jianming Shen, International Law Rules and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea Islands, 21 Hastings International and Comparative Law Review. 1‐75 (1997) footnote 160.
[46] François-Xavier Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal, IRASEC Discussion Papers #14, Bangkok November 2012.
[47] Wai Jiao bu nan hai zhu dao dang an hui bian [Ngoại Giao Bộ Nam Hải chư đảo đương án hội biên], Vol. 1, Taipeh, 1995, p. 47-49. Trích dẫn trong François-Xavier Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal. Discussion Paper #14. IRASEC (Research Institute on Contemporary Southeast Asia), Bangkok. November 2012
[48] Xem Ministry of Foreign Affairs, “Nansha Qundao [南沙群島, or the “Spratly Archipelago”],” The Historical Archives of the Department of Modern History in the Academia Sinica [Zhongyang Yanjiuyuan Jindaishi Yanjiusuo Dang’an Guancang 中央研究院近代史研究所檔案館藏], file series 019.3/0012, file 031. This ROC official telegram is dated August 24, 1946. AND Ministry of Foreign Affairs, “Nansha Qundao [南沙群島, or the “Spratly Archipelago”],” The Historical Archives of the Department of Modern History in the Academia Sinica [Zhongyang Yanjiuyuan Jindaishi Yanjiusuo Dang’an Guancang 中央研究院近代史研究所檔案館藏], file series 019.3/0012, file 145-146. This ROC official telegram is also dated to 1946. The month is unclear.
[49] Chen Keqin, Zhong guo nan hai zhu dao (Trung Quốc Nam Hải chư đảo) Hainan International Press and Publication Center, Haikou 1996
[50] A.B. Feuer, Australian Commandos: Their Secret War Against the Japanese in World War II (Mechanicsburg, Pennsylvania, 2006), Chapter 6.
[51] US Navy Patrol Bombing Squadron 117 (VPB–117), Aircraft Action Report No. 92, available at
http://www.fold3.com/image/#302109453. [52] US Navy, USS Cabrilla Report of 8th War Patrol, available a
http://www.fold3.com/image/#300365402