Nhà thơ Lê Vĩnh Tài. Courtesy photo
Bài trường ca Tây Tạngbạn nghĩ rằng ánh sáng sẽ đóng cửa
khi một người nào đó
nhớ?
mặc dù bạn biết
người ta không thể nhớ
cũng như lửa
không thể tự thiêu
sao nhiều người
vẫn cháy?
thế giới
có còn cơ hội
cho những người ly hương
và tỵ nạn
nhớ?
đêm qua
ngôi mộ của những người đàn ông
cùng đi trốn với nhau
mãi mãi nằm bên nhau
bỏ lại những đứa con và
người đàn bà
họ từng yêu dấu
ai sẽ đến
nhớ?
phổi của bạn đầy bụi
bạn chờ đợi nghẹt thở
ở ngọn lửa
vàng xanh và nhớ?
đêm tối lạnh
bạn đứng xem
những mặt người
xơ xác
những xác người
xác xơ
như bóng trăng bị rỗng
nhớ?
bóng tối nuốt chửng
vì sự đồng ý của những viên đạn
bạn quên
nhớ?
những người thân yêu bị bắn
bạn thấy lồng ngực bị vỡ
như những viên đá lạnh, trong cái cốc
trên bậu cửa sổ
khóc và
nhớ?
Trên đây là lời tựa bằng thơ mở đầu cho bài thơ mang tên “Bài trường ca Tây Tạng” của nhà thơ Lê Vĩnh Tài, hiện đang sống và làm việc tại Việt Nam.
Ngay ở dạng lời tựa Lê Vĩnh Tài đã đưa ra một hình thức khác, vừa giới thiệu vừa trực tiếp mở đầu và cũng vừa đặt câu hỏi, những câu hỏi làm người đọc bâng khuâng và trong chính những lời tựa có vẻ tách xa bài thơ ấy lại chính là một bài thơ khác xâu những cảm xúc lại với nhau trong hình ảnh của con người và đất nước Tây Tạng, nơi quá xa lạ với Việt Nam trong lĩnh vực địa lý nhưng lại rất gần gũi vì cùng chia sẻ những mối u hoài có mẫu số chung là sắc dân bị trị.
Đánh thức người đọc bằng ánh sáng lay động trực giácLê Vĩnh Tài đánh thức người đọc thơ hôm nay bằng ánh sáng lay động trực giác qua những câu thơ có sức chứa mênh mông và không gian trầm mặc của những thiền viện màu saffron bí ẩn. Bí ẩn bởi sức chịu đựng vô hạn. Bí ẩn bởi những ánh lửa thiêu rụi thân thể của những chân tu vượt khỏi trần ai để tranh đấu cho những kiếp sống lầm than, bất hạnh.
Số phận của cả dân tộc Tây Tạng đang đặt dưới ánh lửa, dưới rực cháy bởi lòng yêu dân tộc, đạo pháp vô biên của những con người hiền lành đức độ. Tây Tạng dũng mãnh và cao ngạo trước sức mạnh của loài quỷ dữ. Lê Vĩnh Tài bắt đầu bước vào Tây Tạng bởi những ngọn lửa ấy, lửa của từ bi và lửa của sức phản kháng.
1.
khúc bi ca
bị xoá nhoà trong những vụ tự thiêu
không ai dám
khóc
quả cầu lửa cô độc
từng loé lên bóng tối
đám tro xương người
không có gì
không có gì còn lại
cũng không ai
còn
thấy nóng
những người không bị đốt cháy
sống mãi
……………
Tây Tạng
vẫn nghĩ mình là sư tử
gầm vang cho sự khóc ròng
trống rỗng
trong 1,4 tỷ giọt nước mắt
như mây
tội ác
đã dày
như cao
hơn dãy
Himalaya
“Tây Tạng/vẫn nghĩ mình là sư tử/gầm vang cho sự khóc ròng/trống rỗng” không phải là khúc dạo đầu, cũng không bao giờ là điều kết thúc.
Tây Tạng dưới cảm nhận của Lê Vĩnh Tài không còn là một mảnh đất, cũng không còn là số phận của một dân tộc, nó chính là hình ảnh của vị khổ thần đang vẫy vùng trong vòng vây lửa của đám ác thần. Sự hung mãnh lẫn khổ đau của Tây Tạng trên chót vót mái nhà thế giới khiến con người có cảm giác chỉ có thần linh biết và chứng kiến câu chuyện chiến đấu không cân sức giữa một khổ thần mang áo cà sa và bọn ác thần với đầy đủ bùa chú cung tên mang tên Cộng sản.
2.
Tây Tạng
khi người chạy trốn khỏi đám mây
tưởng không ai dám trói tay
đức Phật
sống
tưởng sấm sét không dám bắt người làm con tin
cho lửa
người duy nhất còn lại
chưa bị đốt cháy
đang chịu nguyền rủa
tại sao chưa chịu giác ngộ?
Tây Tạng
tít trên đỉnh núi
hai cánh tay người xương xẩu
ôm một hài nhi chưa sinh ra
vì những bé sinh ra đã bị đốt
hay thiêu
cháy
những người chết trên đường luân hồi
những người mất tích
những người tìm kiếm
để lại những dấu chân những ngọn đồi
những bụi cây, trong áng mây
trong hình dạng của một con người
trong hình dạng của một đất nước
chỉ còn ngước
lên trời
lặng im hít
thở
tự do
Tây Tạng, những giòng người im lặng nối nhau dưới tuyết, im lặng với những thanh lửa nhỏ yếu trên tay tiến về Lhasa cùng âm thầm niệm khúc lưu vong và hướng ánh mắt lên đỉnh Hymalaia để chờ phép lạ….
bao giờ, Tây Tạng?
những người chín kiếp tu hành nhưng giờ đành
lúc lắc hai nắm đấm
lạt-ma thành bóng ma
để chứng minh sự tồn tại
dù tồn tại là để từ chối
sự toàn năng của đám loăng quăng
và muỗi
ngày thay đổi từ màu đỏ sang đen
từ màu đen sang màu tóc
khi tụng niệm người biết Phật cũng khóc
ròng, và biến mất
nhưng Tây Tạng
người vẫn hiên ngang
ở lại trong trại, tranh luận với các bức tường
và chấp nhận bị nuốt bởi quỷ vương
Tây Tạng có thể là một dân tộc bất hạnh trong lịch sử đương đại nhưng Tây Tạng không cô đơn. Không có những người anh hùng lập quốc như Do Thái, nhưng hình ảnh của vị Phật sống Đạt Lai Lạt Ma đã làm cho Tây Tạng không bao giờ chết. Những mảnh áo cà sa màu Saffron tiếp tục đẫm máu dưới hai giòng nước mắt của Đạt Lai Lạt Ma và bài thơ Tây Tạng vẫn luân lưu trong giòng đời, nhất là trong các cộng đồng bất hạnh tương tự như đất nước khổ đau này.
Tây Tạng
thảo nguyên của người tung bọt trắng như lời nguyền
được viết lên các tầng trời
mưa như nước mắt
khi người vô cớ bị bắt
giam, đám mây cũng tắt
nắng trên đôi mắt trống rỗng
của các nhà sư
từ từ
khuỵu xuống
Tây Tạng
người có lạnh khi bài thơ rơi
từ đỉnh núi
trời mưa, khi người chạm vào nó
gió chạm vào mưa
mưa chạm vào nước mắt
những người bị bắt
chạm vào nhau
nỗi đau
chạm vào phẫn uất
nước mắt
một phần nước và chín mươi chín phần phẫn uất
cơn đau vỡ mật
ngay cả những con bướm
tiếng cánh vẫy cũng im lặng
nghe như tiếng sấm
mọi thứ bây giờ không còn thuộc về người
người ta đã giành lấy
cả những viên đá thiêng liêng
từ tu viện
nhưng ẩn đằng sau khuôn mặt của bóng đêm
đất nước của người như mặt trăng
đã từng đánh dấu trên bản đồ
đã từng có vua
hoàng cung từng lộng lẫy hơn bài thơ
những hành khất đeo mặt nạ với bát ăn bằng bạc
suốt ngày ca hát
dù phải rời khỏi đất nước
Tây Tạng, gương mặt người vẫn như đám mây
tuổi người như đá xám
như khoảng trống
như mênh mông
như cỏ
số phận của người
mãi mãi còn ở đó
chiến trường của người không tồn tại
trong giấc mơ lưu vong
nhưng chẳng lẽ lưu vong là không tồn tại?
nhưng chẳng lẽ?
Bài trường ca Tây Tạng của Lê Vĩnh Tài như một nhắc nhở cho chúng ta, những người ở quá xa với số phận của đất nước màu hổ phách này nhớ rằng bên cạnh đất nước có cùng hoàn cảnh lưu vong, Tây Tạng đang là tấm gương phản chiếu tương lai của Việt Nam một cách trung thực nhất. Lhasa hôm nay có thể là Sài Gòn hay Hà Nội ngày mai. Những tu sĩ âm thầm dắt nhau dưới mưa tuyết trong các tu viện âm u sẽ khắc họa lại một cách sống động tại Việt Nam qua những đám đông màu đỏ đổ xuống từ phương Bắc.
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài. Courtesy photo.
Tây Tạng
người còn quá trẻ hay đã quá già?
người vẫn hít vào và thở ra
như khói, nơi nào người ta đổ gạt tàn thuốc lá
như hàng ngàn đống tro xương người
sau khi tự thiêu
người ta muốn người đi bộ từ núi xuống đồng
còn cách Biển Đông
bao nhiêu hải lý?
chúng ta đã cùng nhau khóc:
cuộc hành quân vạn dặm
Trung Hoa ôi Trung Hoa
bao nhiêu người đã rơi
từ núi cao
mất
mạng?
Tây Tạng
ngọn gió giận dữ ở biên giới
mấy mươi năm trước người quấn lá cờ trong gió
trong một trò chơi rên xiết với mấy ông vua
3.
Tây Tạng
người chết oan khi người không phải chết
chỉ kịp đi qua vệt máu trên mắt
với bụng đói
vẽ từng gương mặt người
như con cừu
ngây ngô hoa dại
cũng phải
chịu chôn vùi
sau bài hát của người lạ chăn cừu
tinh quái
lũ lụt từ những người lạ
bọn họ đến từ đâu?
những kẻ không biết cách tha thứ
cho sự tinh tế của bài hát
cho những bộ quần áo rách nát
trên cơ thể của người
còn gầy và xanh hơn cả bình minh
người có kịp nghe tiếng súng nổ
yên tĩnh mỗi sớm mai tinh khiết
của mấy mươi năm trước
những người mang theo cái chết
bọn họ đến
như những con chuồn chuồn
thích tập bơi
trên rốn
như những vô lý
đầy trên quê hương người
nhưng cỏ vẫn xanh trên con đường đá xanh
máu đỏ vẫn pha trộn vào đất
những tu viện ngập tràn người lạ
hai bàn tay người một đống ký tự
một đống từ ngữ
đồng nghĩa cho bài thơ một sự sống còn
trái nghĩa nhẹ nhàng cho cái lạnh
của ảo ảnh đức tin
bị đốt
như tro cốt
của người
ơi người
quần áo của bài thơ chỉ làm bằng giấy
trời ơi...
không còn ai tha thứ cho nỗi buồn
trong bài hát của người
không còn ai tha thứ cho bộ quần áo
trên cơ thể của người
đã nói rồi
gầy và xanh hơn cả bình minh
Tây Tạng trong trường ca của Lê Vĩnh Tài lắm lúc có những khoảnh khắc ngơ ngác như người mộng du nhìn sự vật qua đôi mắt nhắm nghiền mê ngủ. Sân khấu bên tu viện, đèn lồng và người chết, lính tráng và những con chim trắng hiền hòa…tất cả như một khúc hát lạc điệu cất lên giữa sắc sám u ám lạnh lẽo đến lạnh người.
Lê Vĩnh Tài nhắm mắt diện kiến Tây Tạng trong sự thiền định tuyệt đối. Nhà thơ viết về Tây Tạng bằng im lặng của một tảng băng phấp phới bên trên là gió rít cùng mặt trời Hymalaia. Nhà thơ vuốt ve từng di tích Tây Tạng trên những vết nhăn đau đớn mà lịch sử hằn sâu trên vùng đất và con người sớm thành cổ tích này. Nhà thơ mang tới cho chúng ta, những người đồng cảm, sự rung động bởi thanh âm của lửa cháy rực trên thân xác tu hành để tìm cho ra chân lý tuyệt đối số phận con người đối với quỷ dữ, ác thần.
Vị Khổ thần trên đỉnh nhà thế giới vẫn quỳ gối trước gió và lửa. Vẫn âm thầm chịu đau đớn, âm thầm rít lên lời nguyền lập lại vương quốc con người cho Tây Tạng.
Tây Tạng đang được thế giới lần giở từng trang tin sẽ trở thành lịch đấu tranh bắt đầu từ những hạt máu khô vì lửa. Tây Tạng làm lương tâm thế giới rạn vỡ nhưng bất lực và chỉ biết xoe mắt đứng nhìn bọn ác thần múa may những thanh đao trên bầu trời kỳ vĩ và buồn thảm.
Tác phẩm Thơ hỏi thơ của Nhà thơ Lê Vĩnh Tài. Courtesy photo.
một sân khấu mới được dựng lên
bên tu viện
những người lạ đang nhảy múa
cùng ông vua và ngọn cờ hồng
búa-xua ngọn đèn lồng
treo cao
ngơ ngác
người biết
cái lồng đèn cũng chỉ thắp cúng cho những người chết
còn riêng người phải sống
cuối cùng
hoa dại trong đêm cũng bỏ trốn
trong lúm đồng tiền của người
nó hoá trang để thoát
khỏi tầm nhìn người lạ
những kẻ khai hoả chứ không khai hoá
đang nghểnh cổ để xem
những sân bay mọc lên trên đỉnh núi
những trại lính mọc lên trên quả đồi
hàng ngàn người lạ tràn vào tu viện
hàng ngàn người lạ xuất hiện
sau ô cửa máy bay
không phải áng mây
không phải ngọn cỏ
họ bay như những cánh dù màu lính
mà mỗi đêm
ngày xưa người vẫn bay cùng những con chim trắng
người vẫn hát trong chiều sâu im lặng
không phải
không phải
nên người
bỏ chạy
trời ơi
người
nhìn những diễn viên mang vương miện ông vua
người
thơm mùi hoa táo trong mưa
quần áo mỏng ướt đẫm
bỏ chạy
ống tay áo của người dưới trăng lạnh
nhìn Tây Tạng lắc lư
như rèm cửa sau ánh nắng
mặt trời sau bóng tối
nụ cười sau giả dối
tội lỗi sau tội lỗi
bỏ chạy
người biết
mọi thứ sẽ được đốt cháy cùng với ngọn đèn lồng
khi người dám thoát khỏi sân khấu
người rón rén lấy một chiếc gương nhỏ
soi mặt những người đàn ông xa lạ
và dâm đãng
đang thay những bộ quần áo màu đỏ
và màu xanh lá cây
thành màu vàng
nhưng sự hoá trang khốn nạn
vẫn còn
thứ phấn son đánh lừa
như ma quỷ
người chờ đợi
mang lại những tảng đá và lửa
cùng nhau xây dựng lại một sân khấu khác trên biển mây
khi chiếc máy bay
cất cánh
mang những màu áo lính
ra khỏi thế giới của người
chỉ còn người
vẫn nằm trên đường băng
trên thân thể trần truồng của mình
lột bỏ những bộ quần áo hoá trang
nguyên vẹn
nỗi buồn
mơ cất cánh...
Sau Lê Vĩnh Tài chắc chắn sẽ còn những bài thơ Tây Tạng khác, những hình ảnh cùng trăn trở Tây Tạng khác, tuy nhiên “Bài trường ca Tây Tạng” vẫn sẽ ở lại với chúng ta như một lời rống thống thiết đánh thức sự hờ hững về số phận của chính mình.
Theo RFA