![UserPostedImage](http://ichef.bbci.co.uk/news/ws/640/amz/worldservice/live/assets/images/2015/08/09/150809103332_kiet_640x360_hoangdinhnamafpgetty.jpg)
Ông Võ Văn Kiệt là thủ tướng được đánh giá cao trong giai đoạn hậu Đổi Mới từ năm 1986
Ngày 9 tháng Tám năm 2015 đánh dấu tròn 20 năm Thủ Tướng Võ Văn Kiệt gửi thư đến Bộ Chính trị.
Bức thư này hiện đang được chia sẻ lại trên mạng xã hội và một số nhà bình luận cho rằng bức thư vẫn "còn nguyên giá trị" cho ngày hôm nay.
Dưới đây BBC giới thiệu toàn văn bức thư.
Hà Nội, ngày 9 tháng 8 năm 1995
Kính gửi BỘ CHÍNH TRỊ
Sau đợt thảo luận tháng 6 vừa qua trong Bộ Chính trị xây dựng các văn kiện chuẩn bị Đại hội VIII, đồng chí Tổng bí thư đã kết luận còn một số vấn đề và quan điểm lớn cần tổ chức nghiên cứu và thảo luận sâu hơn nữa. Tôi tán thành kết luận này và xin trình bày một số ý kiến về 4 vấn đề :
1. Đánh giá tình hình cục diện thế giới ngày nay 2. Vấn đề chệch hướng hay không chệch hướng ? 3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước 4. Xây dựng Đảng
1. Đánh giá tình hình, cục diện thế giới ngày nayNhận thức của chúng ta về tình hình, cục diện thế giới này nay quyết định đánh giá của chúng ta về thời cơ và thách thức.
Đặc điểm cần nhấn mạnh là : Trong thế giới ngày nay, không phải mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, mà trước hết là tính chất đa dạng đa cực trở thành nhân tố nổi trội nhất chi phối những mâu thuẫn và sự vận động của các mối quan hệ giữa mọi quốc gia trên thế giới.
Và cũng khác với trước, ngày nay lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực, những lợi ích toàn cầu khác (ví dụ hoà bình, vấn đề môi trường, vấn đề phát triển, tính chất toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc của sự phát triển lực lượng sản xuất...) đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc phát triển những mâu thuẫn cũng như trong việc tạo ra những tập hợp lực lượng mới ngày nay trên thế giới. Nhiều mâu thuẫn khác đã từng tồn tại trong thời kỳ thế giới còn chia thành hai phe – kể cả mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa xã hội – có thể tiếp tục còn tồn tại, song chịu sự chi phối ngày càng lớn hơn bởi những mâu thuẫn khác và do đó không còn có thể giữ vai trò như cũ.
Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập hợp lực lượng chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trước được nữa. Vì ngọn cờ này đã hết phép mê hoặc, chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền.
Không thấy hết đặc điểm quan trọng nói trên, không thể cắt nghĩa được việc Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, ký kết hiệp định khung với EU (Liên hiệp châu Âu, chú thích của DĐ), tạo lập ra được quan hệ quốc tế ngày càng rộng rãi và giành lấy vị trí quốc tế ngày càng thuận lợi hơn trước giữa lúc hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại được nữa.
Cần nhấn mạnh đây là chiến công có ý nghĩa chiến lược và xoay chuyển hẳn tình thế của đường lối đối ngoại Đại hội VII – xuất phát từ những nhận thức mới và chính xác về cục diện thế giới ngày nay. Bây giờ, lợi ích của Việt Nam là phát huy hơn nữa đường lối ấy. Đồng thời cũng phải tỉnh táo đánh giá những thách thức và sức ép mới do ta gia nhập ASEAN, hợp tác với EU, bình thường hoá quan hệ với Mỹ...
Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập hợp lực lượng chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trước được nữa. Vì ngọn cờ này đã hết phép mê hoặc, chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền. Song ngay cả ý đồ muốn thủ tiêu nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực đế quốc và phản động cũng phải được đánh giá dưới ánh sáng của cục diện quốc tế mới – đặc biệt là trong mối tương quan giữa các nước lớn, các “ trung tâm ”, các “ cực ” đang hình thành ngày càng rõ nét.
Để có cơ sở phân tích mối tương quan vừa nói tới bên trên, chúng ta có hàng loạt những sự kiện quan trọng kể từ khi cục diện quốc tế bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới, đó là : chiến tranh Irak, sự tập hợp lực lượng và thái độ các nước lớn chung quanh việc chống Việt Nam trong vấn đề Campuchia, giải pháp hoà bình giữa Palestine và Israel, hoà giải ở Nam Phi, nội chiến ở Nam Tư cũ (Bosnia, Herzegovina), sự tranh chấp ở Trường Sa và thái độ các loại nước khác nhau chung quanh vấn đề này, sự phát triển các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam trong 10 năm qua, triển vọng bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, vai trò ngày càng quan trọng của ASEAN, tiếng nói của các nước nhỏ ngày càng có nhiều trọng lượng hơn trước, xu thế tập hợp các tổ chức kinh tế khu vực, vai trò ngày càng tăng của Liên hiệp quốc song song với hiện tượng những siêu cường ngày càng khó thao túng Liên hiệp quốc như thời kỳ chiến tranh lạnh, vân vân...
Chúng ta cũng cần phân tích sâu những mâu thuẫn mới và sự tập hợp lực lượng mới đang diễn ra trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới, tạo ra cho mỗi nước những cơ hội và thách thức mới khó lường hết được.
Ông Kiệt nói "mâu thuẫn" giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa không phải là yếu tố chính trong thế giới ngày nay
Trước hết đó là những mâu thuẫn và lợi ích của các quốc gia – bao gồm cả sự cạnh tranh gay gắt, xung đột lợi ích quốc gia, yêu cầu hợp tác, những thách thức tác động vào mọi quốc gia do sự phát triển của lực lượng sản xuất và những biến động trong kinh tế thế giới, sự hình thành những liên kết kinh tế khu vực, những thách thức mới trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội do quá trình hoà nhập và giao lưu kinh tế ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia, những chính sách và thủ đoạn của các quốc gia và các thế lực thù nghịch nhau sử dụng những yếu tố mới này để chi phối, đối phó hoặc loại bỏ nhau... Không xử lý được tình hình mới này, không một quốc gia nào có thể đứng vững được.
Cũng cần đánh giá thực chất quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Sự thật hiện nay là 4 nước xã hội chủ nghĩa tuy có những mối quan hệ với nhau ở mức độ nhất định, song không thể hành động và không có giá trị trên trường quốc tế như một lực lượng kinh tế và chính trị thống nhất. Nói riêng về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên thì tính chất quốc gia lấn át (nếu chưa muốn nói là loại bỏ) tính chất xã hội chủ nghĩa trong những mối quan hệ giữa những nước này. Thậm chí trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tồn tại không ít điểm nóng. Thuần tuý nói về chủ nghĩa xã hội thì cả 4 nước xã hội chủ nghĩa còn lại đều nói còn đang phải tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi con đường riêng phù hợp của từng nước.
Cũng không thể xem xét sự phục hồi ở mức độ nào đấy của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế – kể cả ở những nước Liên Xô Đông Âu cũ, có cùng một chất lượng và cũng một giá trị cộng sản chủ nghĩa như trước kia. Chủ nghĩa xã hội dân chủ và nhiều quan điểm pha trộn khác đang tác động mạnh mẽ vào trào lưu này. Nghĩa là sự phục hồi này chưa mang lại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sức nặng chính trị vốn có trước đây. Song có một thực tế khách quan khác rất quan trọng cần được mổ xẻ nghiên cứu. Đó là, bất chấp những biến động nghiêm trọng của hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo ngày càng được củng cố và đứng trước những triển vọng to lớn. Cục diện quốc tế ngày nay có những đặc điểm gì, cho phép vận dụng đường lối nào và có thể khai thác những yếu tố gì đã giúp cho Đảng ta xoay chuyển được tình hình ; tìm ra được hướng đi mới và tạo khả năng giành thời cơ để đi lên như vậy ?
Với đánh giá tình hình theo cách nhìn mới, có thể nói, sau một nửa thế kỷ phấn đấu đầy hy sinh gian khổ kể từ Cách mạng tháng Tám, bây giờ chúng ta mới cùng một lúc có được điều kiện bên trong tốt nhất và bối cảnh quốc tế bên ngoài thuận lợi nhất cho phép đặt ra được và thực hiện được dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, đáp ứng được đòi hỏi phải vươn ra thế giới bên ngoài để tồn tại và phát triển, để lấy lại thời gian đã mất và đuổi kịp các nước chung quanh.
Điều hiển nhiên là trên thế giới tiếng nói ủng hộ hay đồng tình với yêu cầu ổn định chính trị của Việt Nam ngày càng mạnh, sự chấp nhận trên thế giới đối với chế độ chính trị một đảng của Việt Nam cũng đang tăng lên – mặc dầu lúc này lúc khác vấn đề dân chủ và nhân quyền được sử dụng như một phương tiện chính trị đối phó với chúng ta. Hơn thế nữa, đang có một xu thế ngày càng mạnh trên thế giới hoan nghênh, cổ vũ sự phát triển năng động và vai trò tích cực của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu như trong tương lai gần đây, chúng ta thực hiện được dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, nước Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sẽ lại một lần nữa giành được trái tim của các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới – một sự tập hợp lực lượng mới, như Đảng ta và nhân dân ta đã từng thực hiện được trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Bởi vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh là khát vọng của nhân dân ta, đồng thời cũng là mong muốn của nhiều nước đang phát triển và các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Những lý luận hoặc mô hình này mô hình khác về xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vừa qua có thể thất bại, nhưng xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa chân chính vẫn là khát vọng của nhân dân lao động toàn thế giới. Xem xét thế giới như vậy, mặt trận của Việt Nam tập hợp lực lượng trên thế giới ngày nay vẫn có triển vọng ngày càng mở rộng. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối của Đảng ta và phẩm chất cách mạng của chúng ta.
Tất cả phải đưa lên bàn cân, để có thể nhận định, phán đoán tình hình một cách đúng đắn, xác định chính xác nhiệm vụ phải thực hiện, để lo thu xếp huy động thực lực bên trong, tập hợp lực lượng bên ngoài và bài binh bố trận như thế nào để thắng bằng được trong keo vật mới này?
Với đánh giá tình hình theo cách nhìn mới, có thể nói, sau một nửa thế kỷ phấn đấu đầy hy sinh gian khổ kể từ Cách mạng tháng Tám, bây giờ chúng ta mới cùng một lúc có được điều kiện bên trong tốt nhất và bối cảnh quốc tế bên ngoài thuận lợi nhất cho phép đặt ra được và thực hiện được dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, đáp ứng được đòi hỏi phải vươn ra thế giới bên ngoài để tồn tại và phát triển, để lấy lại thời gian đã mất và đuổi kịp các nước chung quanh. Có thể nói, đất nước đang đứng trước cơ hội chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta!
Đảng ta lãnh sứ mệnh lịch sử trước dân tộc là không được bỏ lỡ cơ hội này. Đây chính là nhiệm vụ của Đại hội VIII. Cũng có thể nói rằng, rụt rè bỏ lỡ cơ hội này, sẽ là thảm hoạ cho đất nước, Đảng ta sẽ đứng trước nguy cơ bị tước quyền lãnh đạo – chỉ vì không đáp ứng được đòi hỏi phát triển của đất nước. Xin nhấn mạnh rằng sau gần 200 năm kể từ khi kinh tế thế giới đi vào thời đại công nghiệp hoá, dân tộc Việt Nam ta bây giờ mới có lại một cơ hội như vậy. Chúng ta không được và không có quyền để bất kỳ một vướng mắc nào ngăn cản nhân dân ta nắm lấy cơ hội này. Sự tồn vong của đất nước phải được xem xét trên tất cả.
2. Vấn đề 'chệch hướng' hay không 'chệch hướng' ?Đề tài này đang được thảo luận rất sôi nổi trong Đảng và trong cả nước, chắc chắn còn phải mất nhiều công sức để đi tới những kết luận có sức thuyết phục hơn.
Đảng Cộng sản ở Việt Nam muốn là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước
Về lý luận sẽ bàn sau.
Về thực tiễn, phải chăng có thể căn cứ vào những tiêu chí cơ bản nhất sau đây để làm rõ định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là : – Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, – Phát triển gắn liền với giữ gìn độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hoá của dân tộc, – Phát triển gắn liền với phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường, – Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân có hiệu lực, – Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn bộ quá trình phát triển nói trên của đất nước.
Một vấn đề rất khó ở đây là sự tách bạch đúng đắn giữa mục tiêu và phương tiện thực hiện mục tiêu. Có làm tốt được việc này, mới xác định rõ được chệch hướng hay không chệch hướng.
Ví dụ, nếu chúng ta cho rằng kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí của định hướng xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh rằng đó là mục tiêu phấn đấu của chúng ta, của dân tộc ta, thì điều này hoàn toàn không đúng. Thực ra vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh chỉ là một trong nhiều điều kiện quan trọng, đồng thời cũng là một trong nhiều phương tiện quan trọng cần phải có để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghệ thuật lãnh đạo đất nước ở đây là phải xử lý hài hoà mối quan hệ giữa việc phát huy vai trò kinh tế quốc doanh và việc thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, với đích cuối cùng là bảo đảm thực hiện được 5 tiêu chí nói trên.
Chúng ta nhất trí rằng con đường xây dựng xã hội đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa có tiền lệ chính vì lẽ này: phải luôn tránh công thức hoá, phải bám lấy kết quả tổng thể trong việc thực hiện những tiêu chí lớn để soi rọi lại xem có chệch hướng hay không chệch hướng. Ví dụ có đồng chí nói biểu hiện của chệch hướng là quốc doanh không làm chủ được lưu thông phân phối, tư thương hầu như chi phối thương nghiệp. Một biểu hiện khác của chệch hướng – cũng theo cách nhìn nhận như vậy – là trong giao thông vận tải, tỷ lệ xe tư nhân chiếm quá cao... Cũng những sự việc nói trên đúng ra phải được đánh giá hoàn toàn ngược lại.
[N]ếu chúng ta cho rằng kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí của định hướng xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh rằng đó là mục tiêu phấn đấu của chúng ta, của dân tộc ta, thì điều này hoàn toàn không đúng.
Sự thật là đường lối đổi mới đã tạo ta được một cơ chế kinh tế cho phép huy động mọi tiềm năng trong xã hội nhờ đó đã xử lý có thể nói khá thành công vấn đề lưu thông hàng hoá và giao thông vận tải. Về phương diện này, chúng ta đã thành công rất xa so với thời kỳ còn cơ chế kinh tế bao cấp. Bây giờ hàng hoá đi và về hầu như mọi miền đất nước, nhân dân trong cả nước đi lại dễ dàng hơn trước nhiều lần. Cũng nhờ đó, đời sống được cải thiện rõ rệt, nền sản xuất hàng hoá tăng trưởng nhanh. Chúng ta thử hình dung sự phát triển này đã huy động được biết bao nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội, đã tạo ra biết bao công ăn việc làm mới cho người dân trong cả nước mà khu vực kinh tế nhà nước không thể lo xuể. Những năm trước khi thực hiện đổi mới, chúng ta đã có kinh nghiệm nếu không có sự phát triển này thì kinh tế tiêu điều và ách tắc như thế nào ! Nếu coi sự phát triển này là chệch hướng, có nghĩa là chúng ta phải đem kinh tế quốc doanh ra đối lập lại với sự phát triển này, đối lập với tất cả những người lao động đang bỏ của và công sức để tạo ra sự phát triển như hiện nay.
Đương nhiên tình hình lưu thông phân phối và giao thông vận tải hiện nay chưa phải thật hoàn hảo. Song, không thể giải quyết những vấn đề ta gọi là “ tranh mua tranh bán ”, vấn đề đầu cơ, tai nạn giao thông... bằng cách mở rộng mạng lưới quốc doanh trong những lãnh vực này. Đấy không phải là giải pháp. Trong những năm của cơ chế kinh tế cũ, quốc doanh đã hầu như nắm toàn bộ các lãnh vực này và chúng ta đã biết kết quả. Ngày nay không ít xí nghiệp, đơn vị quốc doanh làm ăn trái với pháp luật, số lượng phương tiện giao thông vận tải của quốc doanh – trong đó có xe của đơn vị quân đội – tham gia buôn lậu khá lớn... Vì vậy, giải pháp cho những vấn đề này là phải tiếp tục hoàn thiện thị trường, tăng cường chất lượng bộ máy nhà nước trong quản lý kinh tế, kiện toàn và tiếp tục phát triển các hệ thống tài chính, luật pháp, những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đúng hướng..., chứ không phải giao cho quốc doanh “ nắm ” tất cả.
Cũng có ý kiến nói chệch hướng trong vấn đề hợp tác xã.
Cần phải nói thẳng thắn mô hình hợp tác xã cũ không còn thích ứng với sự phát triển của kinh tế hộ và những đòi hỏi trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay của đất nước. Kết thúc sự tồn tại của mô hình này trong lĩnh vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là tất yếu. Thật ra kinh tế hộ trong nông lâm nghiệp, thuỷ sản, những người sản xuất tiểu thủ công nghiệp và không ít những người buôn bán nhỏ, sản xuất nhỏ đang rất cần một loại hình hợp tác xã mới có thể hỗ trợ thiết thực cho họ. Khuyết điểm của chúng ta là chưa đáp ứng được đòi hỏi mới này. Trong khi đó, các hộ kinh tế này đang tự phải tổ chức với nhau những hình thức hợp tác thiên hình vạn trạng và ở những mức độ rất khác nhau, nơi thành công, nơi thất bại và không ít những kinh nghiệm đáng được nghiên cứu cho việc xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới thích hợp. Khư khư giữ mô hình hợp tác xã cũ sẽ lại thất bại. (Vừa qua, tôi đến thăm nông trường Sông Hậu. Thực chất đó không còn là một nông trường theo nghĩa xưa nay chúng ta vẫn hiểu. Đó chính là một mô hình hợp tác xã kiểu mới như chúng ta vẫn thường thấy ở các nước công nghiệp. Đây chính là mô hình cần được nghiên cứu).
Ông Kiệt chỉ ra từ năm 1995 về "tình trạng làm ăn trái pháp luật, tham nhũng, tiêu cực đang trở thành "quốc nạn"
Song nguy cơ chệch hướng đang ẩn náu trong nhiều hiện tượng kinh tế xã hội khác cần được chú ý xử lý thoả đáng. Đó là tình trạng làm ăn trái pháp luật, tham nhũng, tiêu cực đang trở thành “ quốc nạn ”, bao gồm cả những thói xấu như cục bộ, cửa quyền, tính vô chính phủ, cát cứ, tiêu xài lãng phí và ăn cắp của công... Những hiện tượng này đang làm giảm hiệu lực pháp luật và các hệ thống quản lý kinh tế (vĩ mô và vi mô) của nhà nước, gây nhiều thiệt hại kinh tế nghiêm trọng, kể cả trong liên doanh với nước ngoài ; kích thích kinh tế ngầm và các mafia, tăng thêm những căng thẳng trên các vấn đề như khoảng cách thu nhập, sự phân hoá và tệ nạn xã hội (đặc biệt là những tệ nạn nghiện hút, cờ bạc, mãi dâm), vấn đề công bằng và công lý, v.v... Sẽ là sai lầm, nếu đem tất cả những phát triển không lành mạnh này đổ lỗi cho cơ chế thị trường. Kết luận như vậy sẽ chỉ còn có cách là xoá bỏ cơ chế kinh tế thị trường, một điều ai cũng thấy là vô lý, và những hiện tượng xấu ấy sẽ không vì thế tự nhiên biến mất (đành rằng cơ chế thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần tự nó cũng đặt ra nhiều vấn đề mới phải xử lý).
Để những hiện tượng xấu này tiếp tục phát triển, sẽ có nghĩa nhà nước mất dần khả năng kiểm soát, sự trong sạch và vững mạnh của chế độ chính trị giảm sút, lòng dân phân tán, định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ chỉ còn là khẩu hiệu trống rỗng. Chệch hướng và diễn biến hoà bình sẽ có thêm mảnh đất màu mỡ để bung ra. Trên phương diện này, rõ ràng hậu quả của những yếu kém trong năng lực quản lý nhà nước chưa được đánh giá đúng mức. Chỗ nào chúng ta cũng có đảng viên, cán bộ, song tình trạng tiêu cực vẫn có xu hướng phát triển. Đảng và các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền các cấp, các đoàn thể, các ngành phải làm gì ?
Một vấn đề không thể tránh né là chúng ta thừa nhận sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đến mức độ nào để khỏi chệch hướng ? Đề nghị cần trao đổi kỹ vấn đề này.
Chúng ta đang đứng trước đòi hỏi khách quan là nước ta phải giàu lên càng nhanh càng tốt, để có sức cạnh tranh và có lực thu hút mọi nguồn vào từ bên ngoài để giữ được độc lập tự chủ trong mở rộng, hợp tác và phát triển. Chúng ta phải ráo riết tăng mạnh cường độ tích tụ vốn để có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã từng kéo dài hàng trăm năm trong lịch sử các nước công nghiệp xuống còn vài ba thập kỷ như một số “ con rồng ” ở châu Á đã thực hiện. Không làm được như vậy sẽ mất thời cơ và mất tất cả. Chính đấy là những đòi hỏi ràng buộc chúng ta trong khi xử lý vấn đề phát triển các thành phần kinh tế.
Chúng ta phải ráo riết tăng mạnh cường độ tích tụ vốn để có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã từng kéo dài hàng trăm năm trong lịch sử các nước công nghiệp xuống còn vài ba thập kỷ như một số “con rồng” ở châu Á đã thực hiện. Không làm được như vậy sẽ mất thời cơ và mất tất cả.
Hơn thế nữa, chúng ta còn phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sao cho trong vòng mươi, mười lăm năm tới chỉ còn trên 1/3 lao động cả nước làm nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP phải giảm xuống mức thấp trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Không đạt được yêu cầu này, sẽ tăng thêm nguy cơ bần cùng hoá (bởi vì trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, tài nguyên đất đai, rừng núi và ven biển đã được khai thác hầu như ở mức độ quá tải bằng công nghệ thủ công và lạc hậu), hoàn toàn không thể nói tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong mở rộng liên doanh với nước ngoài, phần góp vốn của phía ta hiện nay thường chỉ đạt 20 - 30 % giá trị công trình, vì làm chưa tốt việc huy động các nguồn lực trong nước, phía ta rất thiệt thòi v.v...
Như vậy phải chăng câu trả lời sẽ là : Để đáp ứng những đòi hỏi vô cùng bức xúc của phát triển, chúng ta chủ trương trong khi đối xử bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế, chúng ta chấp nhận không đặt ra cho các thành phần kinh tế bất kỳ giới hạn phát triển nào, miễn là sự phát triển ấy cân đối hài hoà, ổn định, nằm trong khuôn khổ của luật pháp, nhà nước.. kiểm soát được và đáp ứng tối đa những tiêu chí lớn chúng ta đã xác định cho định hướng xã hội chủ nghĩa ?
Nếu chấp nhận đạo lý vừa trình bày trên, sẽ có nhiều vấn đề hệ trọng phải xem xét lại trong việc hoạch định đường lối và chính sách. Có thể chính đạo lý này sẽ thống nhất ý chí toàn dân tộc trước vận mệnh mới của đất nước, tạo ra động lực không gì khuất phục được cho một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, độc lập và bất khả xâm phạm với bất kỳ sức ép bên ngoài nào. Song nhằm đạt được mục tiêu này, năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội trở thành một trong những tiền đề quyết định – và đây lại chính là điều chúng ta thiếu nhất. Xử lý thành công yêu cầu này là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng của Đảng ta hiện nay.
Ông Kiệt muốn tới giai đoạn 2005-2010 chỉ còn 1/3 lao động nông nghiệp trên cả nước
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có phải ưu tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh hay không ?
Như đã trình bày, Đảng ta lựa chọn quan điểm đối xử bình đẳng các thành phần kinh tế. Lợi ích lâu dài của đất nước đòi hỏi phải quán triệt và kiên trì quan điểm này. Trừ một số lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng và phát triển cơ sở hạ tầng (bao gồm cả về mặt xã hội), không nên và không thể đặt vấn đề “ ưu tiên ” KTQD, hay giao cho KTQD nhiệm vụ “ nắm ” một thứ gì đó như chúng ta thường làm trong cơ chế quản lý cũ. Nhưng kinh tế quốc doanh thật sự đang có nhiều vấn đề quan trọng khác chưa được quan tâm đúng mức.
Điều đáng lưu ý nhất là kinh tế quốc doanh nhìn chung chưa đem lại hiệu quả mong muốn lớn nhất cho nền kinh tế quốc dân xứng đáng với vai trò, vị trí và vốn liếng nó nắm trong tay. Đối với chế độ chính trị của nước ta, kinh tế quốc doanh là lực lượng kinh tế quan trọng nhất trong việc thực hiện đường lối, chủ trương kinh tế và phát triển đất nước của Đảng. Chúng ta còn phải làm nhiều việc để cho KTQD trở thành đội quân chủ lực mở đường cho kinh tế nước ta đi lên, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, làm chỗ dựa và có khả năng hạn chế bớt rủi ro cho kinh tế cả nước, tạo ra những tập đoàn mạnh trong cạnh tranh với bên ngoài. Cũng phải từ quan điểm vừa trình bày mà xem xét, bố trí KTQD vào đâu, làm việc gì, với phương thức nào là có lợi nhất. Ngoài ra cần làm cho KTQD trở thành yếu tố năng động trong hệ thống điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Sự thực là năng suất lao động và hiệu quả của từng đồng vốn trong KTQD (ở đây không kể những đơn vị kinh tế phải làm công ích xã hội hoặc phát triển cơ sở hạ tầng) nhìn chung còn thấp so với vốn của các thành phần kinh tế khác trong xã hội. Tình trạng thất thoát và lợi dụng vốn quốc doanh còn ở mức nghiêm trọng. Hơn nữa, việc sắp xếp và cơ cấu lại KTQD, cổ phần hoá, xây dựng các liên kết liên doanh còn rất chật vật, có nhiều sức tiêu cực chống lại. Ngoài ra chúng ta hiện nay mới chỉ quan tâm đến xử lý tính hiệu quả của các xí nghiệp, song chưa có sự quan tâm thoả đáng đến vấn đề chuyển đổi các xí nghiệp để huy động vốn quốc doanh tập trung vào những ngành nghề có thể chi phối sự phát triển kinh tế của cả nước, việc sắp xếp lại và giải thể những xí nghiệp không có hiệu quả kinh tế đáng kể, thực hiện chưa tốt nên chưa tạo ra chuyển biến mới.
Đảng ta lựa chọn quan điểm đối xử bình đẳng các thành phần kinh tế. Lợi ích lâu dài của đất nước đòi hỏi phải quán triệt và kiên trì quan điểm này. Trừ một số lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng và phát triển cơ sở hạ tầng (bao gồm cả về mặt xã hội), không nên và không thể đặt vấn đề “ ưu tiên ” KTQD, hay giao cho KTQD nhiệm vụ “ nắm ” một thứ gì đó như chúng ta thường làm trong cơ chế quản lý cũ.
Tóm lại, để góp phần giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi bức xúc là phải nâng cao tính hiệu quả của kinh tế quốc doanh, nhằm làm cho nó chiếm một vai trò chủ đạo trong thị trường nước ta chứ không phải là giành cho nó quyền “ nắm ” thứ này thứ khác.