Tóm lược: Nguyễn Viết Dũng, một thanh niên sinh sống tại Việt Nam, viết bài thơ "Kiếp Lưu Vong," mô tả nỗi đau xót của tuổi trẻ trong cuộc sống đọa đầy dưới sự cai trị cộng sản. Bài thơ biểu lộ nỗi niềm đau thương của một thanh niên sống trên quê cha đất mẹ nhưng tưởng như đang sống kiếp lưu vong nơi xứ lạ quê người, vì đất nước anh đang bị cai trị bởi cộng sản. Bài thơ gửi các câu hỏi đến toàn thể dân Việt Nam là lời kêu gọi nhắc nhở toàn dân đến lịch sử oai hùng và niềm thiết tha giành lại tự do đã bị cộng sản cướp đi. "Kiếp Lưu Vong" là một bài thơ chính trị tuyệt diệu, dùng thể loại thơ bốn câu vần liên kết, thích hợp cho mục tiêu kêu gọi đấu tranh. Những ẩn dụ độc đáo diễn tả ý tưởng chống đối và kêu gọi một cách tinh tế. Qua các câu hỏi tu từ, bài thơ có tác dụng thuyết phục rất hiệu quả trên giới trẻ tại Việt Nam hiện nay, và do đó cần được truyền bá rộng rãi.
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2014, một lá cờ vàng ba sọc đỏ, quốc kỳ nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), bay phất phới trên nóc nhà một căn nhà tại Nghệ An. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, lá cờ chính nghĩa của VNCH tung bay công khai trên đất nước Việt Nam sau ngày cộng sản xâm lăng và chiếm đóng quốc gia VNCH vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sự kiện lá cờ VNCH bay trên nước Việt Nam vào ngày quốc hận 30 tháng 4 cho thấy dân tộc VNCH vẫn còn sống hùng mạnh và nước VNCH chỉ đang bị chiếm đóng bởi nhóm cộng sản (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2015a). Lá cờ VNCH đó do Nguyễn Viết Dũng, biệt danh "Dũng Phi Hổ," một thanh niên 28 tuổi lúc bấy giờ, tự làm và treo trên nóc nhà anh.
Tuy sinh trưởng dưới chế độ cộng sản và hấp thụ lối giáo dục tẩy não và nhồi sọ của cộng sản, Nguyễn Viết Dũng không trở thành nạn nhân của chính sách cộng sản đầu độc tư tưởng đã hãm hại hàng triệu thanh thiếu niên ưu tú Việt. Dũng tự nghiên cứu và tìm tòi về đảng cộng sản Việt Nam, chiến tranh Việt Nam, và chính thể VNCH. Sau nhiều năm tìm tòi và học hỏi, Dũng phát huy nhiều ý tưởng về cuộc đấu tranh cho tự do.
Một trong những ý tưởng của Dũng trong cuộc đấu tranh cho tự do được ghi nhận trong bài thơ "Kiếp Lưu Vong" do Dũng viết. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" nói lên tâm trạng bi thương của Dũng trước cảnh đất nước Việt Nam bị cộng sản cai trị và niềm mong ước toàn dân Việt Nam sẽ đứng lên giành lại tự do và phục hồi lại chính nghĩa quốc gia. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" được nhạc sĩ Dzuy Lynh phổ nhạc với cùng nhan đề. Bài thơ được chính Nguyễn Viết Dũng đọc và bài hát được nhạc sĩ Dzuy Lynh hát trong một video clip đăng trên You Tube (Xem, thí dụ như MrBinhBet 2015).
Trong bài này, tôi sẽ chỉ thảo luận về bài thơ "Kiếp Lưu Vong," và sẽ không thảo luận đến ca khúc cùng nhan đề do nhạc sĩ Dzuy Lynh viết. Lý do là tôi muốn chú trọng vào ý nghĩa của bài thơ và tác giả Nguyễn Viết Dũng. Ca khúc do nhạc sĩ Dzuy Lynh viết là bài hát rất hay và gây cảm xúc mạnh. Độc giả hãy lắng nghe và thưởng thức bài thơ và ca khúc tại đoạn video trên YouTube (MrBinhBet 2015).
Tiểu sử của Nguyễn Viết Dũng như sau (Mộc 2015):
Nguyễn Viết Dũng sinh ngày 19 tháng 6 năm 1986, là con trai duy nhất trong gia đình có 4 anh em, tại tỉnh Nghệ An. Nên ghi nhận ngày sinh 19 tháng 6 của Nguyễn Viết Dũng cũng là ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Dũng sinh ra và lớn lên trong gia đình mà cha mẹ đều là nông dân, sinh sống bằng nghề cấy lúa. Ngay từ nhỏ Dũng đã học giỏi toàn diện, đặc biệt rất giỏi về môn khoa học tự nhiên.
Với thành tích học tập xuất sắc, năm học lớp 12 (2004) Dũng được chọn tham dự cuộc thi "Đường lên đỉnh Olympia," một cuộc thi kiến thức trên truyền hình dành cho học sinh trung học phổ thông do VTV3 – Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức (Wikipedia 2015e). Kết cuộc Dũng lọt đến kỳ thi Quý và đoạt giải ba. Trong kỳ thi đại học năm 2004, Dũng đậu Đại Học Bách Khoa Hà Nội với số điểm 29/30, đứng đầu tỉnh Nghệ An lúc đó. Sau một thời gian theo học đại học, Dũng tìm hiểu về lịch sử Việt Nam và những sự thật về đảng cộng sản Việt Nam, cũng như về cuộc chiến tranh Việt Nam, và chính thể VNCH của miền Nam Việt Nam. Sau đó, Dũng dấn thân vào con đường đấu tranh cho tự do và chính nghĩa quốc gia.
Ngày 30 tháng 4, 2014 lá cờ VNCH (cờ vàng ba sọc đỏ) lần đầu tiên được treo trên nóc nhà Dũng tại Nghệ An. Ngay sau đó Dũng bị 5 công an đến bắt về đồn. Từ lúc đó trở đi Dũng và gia đình thường xuyên bị sách nhiễu, nhưng Dũng vẫn kiên trì với lý tưởng của mình.
Ngày 12 tháng 4, 2015, Nguyễn Viết Dũng cùng 4 bạn trẻ tham gia tuần hành bảo vệ cây xanh cùng người dân Hà Nội. Đến 11 giờ cùng ngày, khi buổi tuần hành kết thúc, nhóm của Dũng tách đoàn đi về thì bất ngờ bị công an quận Hoàn Kiếm bắt giữ khẩn cấp với lý do vi phạm vào Điều 245 Luật Hình Sự (CTV 2015a; CTV 2015b; CTV 2015c). Căn cứ vào các quy định pháp luật của nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại, Nguyễn Viết Dũng đã làm những việc mà pháp luật không cấm. Nhưng hiện nay Dũng lại bị bắt giam và có thể bị nhà cầm quyền Việt Nam gán cho một tội danh để khởi tố. Trong lúc bị giam giữ, "do bày tỏ thái độ bất hợp tác nên Nguyễn Viết Dũng đã bị CA đánh đập nhiều chỗ trên người, trong đó đau nhất ở phần xương sườn" (CTV 2015d). Ngay sau khi Nguyễn Viết Dũng bị giam giữ, có nhiều tổ chức dân sự lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền thả tự do và phản đối việc bắt giữ tùy tiện của công an (Xem, thí dụ như, Bloc 2015; MLBVN 2015). Cho đến nay (tháng 8 năm 2015) Nguyễn Viết Dũng vẫn còn bị giam giữ một cách bất hợp pháp và gia đình vẫn chưa được gặp Dũng (Minh 2015).
Hình 1 là bức tranh chân dung Nguyễn Viết Dũng, cờ vàng trên đất nước Việt Nam, và con hổ tượng trưng biệt danh "Dũng Phi Hổ" của anh. Bức tranh do họa sĩ Trần Thúc Lân thực hiện dành cho tổ chức Quỹ Tù Nhân Lương Tâm, một tổ chức cung cấp ủng hộ tinh thần và vật chất cho các tù nhân lương tâm tại Việt Nam (Website:
http://www.tnlt.net/ ).
Nguyên văn lời bài thơ "Kiếp Lưu Vong" như sau (MrBinhBet 2015):
Em hỏi tôi: Sao thoát kiếp lưu vong?
Tôi cười buồn, tôi đâu hơn gì thế
Đôi mắt nàng buồn ướt hai dòng lệ
"Đến bao giờ dân tộc được tự do"?
Đến bao giờ dân tộc được tự do?
Khi cộng sản vẫn còn cai trị?
Tiếng gọi công dân rơi vào cơn mộng mị
của vòng quay cơm-áo-gạo-tiền
Em nhìn tôi xem: khác gì kẻ điên?
Sống kiếp lưu vong ngay trên đất mẹ
Dòng đời vẫn trôi: Tôi cúi đầu bàng bẽ
Dân khí cạn rồi?
Còn nhớ chăng tiếng trống Mê Linh?
Và xương máu tiền nhân khai hoang mở nước?
Lẽ nào ta mãi sống đời bạc nhược?
Để cộng nô kia mãi mãi đọa đày?
Đến bao giờ Hoàng Kỳ tung bay?
Thoát kiếp lưu vong, tự do mang về tới?
Câu hỏi này sao tôi đáp nổi?
Đồng bào ơi: Cùng đáp thay tôi.
VIDEO Trong bài này, tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, hoặc người xem. Khi thảo luận các vấn đề ngữ học, tôi dùng "chữ" để chỉ cả mẫu tự (alphabet) và từ (word). Lý do là "từ" thường dễ bị lầm lẫn là "từ khi" hoặc "từ chỗ." Ý nghĩa của "chữ" thường rõ trong nội dung (Cao-Đắc 2014, 451).
Trước khi nói về bài thơ "Kiếp Lưu Vong," tôi muốn nhân dịp này thảo luận tổng quát về thơ (poetry) hoặc thi ca để đặt nền tảng giúp cho việc phân tích bài thơ "Kiếp Lưu Vong."
A. Mục đích tối thượng của thơ, như mọi tác phẩm nghệ thuật khác, là đem con người lại gần nhau; do đó, không có gì lạ khi thơ được dùng trong việc chống đối những lực cản trở việc này. Thơ là gì? Làm thơ hay đọc thơ có lợi ích gì? Đó là những câu hỏi căn bản về thơ. Tôi sẽ không thảo luận vào chi tiết những khía cạnh kỹ thuật về thơ hay thi ca, như âm, vần, nhịp điệu, và các quy luật cho các thể thơ. Độc giả có thể tìm hiểu thêm trong các tài liệu khác. Xem, thí dụ như, Wikipedia 2015a; Wikipedia 2105b.
1. Định nghĩa và tác dụng của thơ:
Thơ có nhiều định nghĩa. Theo một định nghĩa thông thường nhất, "[t]hơ là một dạng văn chương dùng các phẩm chất thẩm mỹ và nhịp điệu của ngôn ngữ để đem lại những ý nghĩa thêm vào, hoặc thay cho, ý nghĩa nôm na bề ngoài" (Wikipedia 2015a). Aristotle (384 TCN - 322 TCN) (TCN = trước công nguyên), triết gia và khoa học gia Hy Lạp nổi tiếng, coi thơ "bắt chước" cuộc sống vì "thơ mời mọc ta tưởng tượng đề tài là thực trong khi tự nhận đó là hư cấu" (SparkNotes 2005). "Bắt chước" nghe có vẻ không tốt, nhưng tôi nghĩ Aristotle, nếu sinh vào thời đại này, sẽ dùng chữ " diễn tả" vì thực ra "diễn tả" một việc giống như là "bắt chước" việc đó.
Như các thể loại nghệ thuật khác, mục đích của thơ là diễn tả những gì xảy ra trong cuộc đời như cảnh vật, tâm trạng, hoàn cảnh, ý tưởng, câu chuyện, xã hội, hoặc con người. Do đó, cách diễn tả là điểm quan trọng trong thơ. "Đề tài không quan trọng; chiều sâu của tưởng tượng, và cách đặt tưởng tượng đó vào ngôn ngữ mới quan trọng" (Addonizio và Laux 1997, 66). Một trong những điểm quan trọng của cách diễn tả tư tưởng là mức độ gợi ý hoặc kích động suy nghĩ của người đọc. Để đạt mục tiêu này, người viết, hoặc làm, thơ, thường được gọi là thi sĩ, phải biết cách khai thác ý tưởng và những khái niệm căn bản của con người như vẻ đẹp, đạo đức, và niềm tin. "Không ai có thể xưng là thi sĩ nếu người đó không truy vấn ý tưởng, luân lý, và niềm tin của mình" (sđd., 23). Điề̉u đó không có nghĩa là người làm thơ phải cố gắng diễn tả những ý tưởng cao siêu, trừu tượng, hoặc lý thuyết. Cái truy vấn ý tưởng nhiều khi chỉ đơn giản là ghi nhận tình cảm, nhất thời hay lâu dài, về một kinh nghiệm sống nào đó. "Thơ mang ra cái gì bên trong bạn - cho dù đó là một hồi tưởng, một ý tưởng triết lý, một mối tình sâu đậm với một người khác hoặc thế giới, hoặc sự sợ hãi thần thánh ma quỷ" (sđd., 22).
Trong bài này, tôi không thể thảo luận đầy đủ các kỹ thuật làm thơ và các lý thuyết về viết thơ và đọc thơ, thưởng thức thơ. Độc giả có thể tham khảo các tài liệu khác qua sách vở hoặc trên mạng.
Làm thơ hay đọc thơ có lợi ích gì?
Đã có nhiều tài liệu nói đến sự ích lợi của làm thơ hoặc đọc thơ. Các ích lợi tổng quát gồm có: thơ giúp ta đối phó và đơn giản hóa sự phức tạp; thơ giúp ta phát huy cảm tưởng sắc bén cho đồng cảm (empathy); đọc và viết thơ giúp ta phát triển sức sáng tạo; thơ dạy ta truyền cuộc sống với sự đẹp đẽ và ý nghĩa (Coleman 2012). Các ích lợi tổng quát này áp dụng cho cả hai hoạt động viết thơ hay "làm" thơ, và đọc thơ. Ngoài các ích lợi chung đó, mỗi hoạt động đểu có những ích lợi riêng của nó. Thông thường, người viết thơ cũng đọc thơ, nhưng người đọc thơ không nhất thiết là biết viết thơ.
Ích lợi của viết thơ khá nhiều, nhất là với giới trẻ. Tôi có thể liệt kê một số: giúp phát huy tinh thần cởi mở, chân thành, tinh tế, sâu sắc, nhạy cảm; củng cố niểm tự tin và sức mạnh bản ngã; phát triển nhận diện và thông cảm; giúp củng cố khả năng nói chuyện, biểu lộ ý tưởng, và tạo các mối liên hệ bền vững; giúp phát triển tài dùng ngôn ngữ, cách dùng chữ; hiểu biết thêm về các khía cạnh rộng lớn hơn và quý trọng cuộc sống hơn (Pongo).
Ích lợi của đọc thơ gồm có: cải tiến tài ăn nói và trí nhớ; cải tiến đường lối suy nghĩ phán đoán (critical thinking); phát huy đồng cảm và sáng suốt; khuyến khích tham gia vào các dạng nghệ thuật khác (Matus).
Những ích lợi trên tùy vào từng cá nhân, và không phải ai cũng có được ích lợi giống nhau. Tuy có nhiều ích lợi khác nhau, theo tôi, có một điểm ích lợi có lẽ tối thượng cho cả viết thơ và đọc thơ. Ích lợi này có chung cho cả hầu hết các lãnh vực nghệ thuật khác như văn xuôi, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, v.v. Đó là phát huy niềm thông cảm và hiểu nhau. Thơ đòi hỏi sự diễn tả và sự hiểu cái diễn tả đó. Vì vậy, thơ có tác dụng giúp con người hiểu nhau hơn và mang con người gần nhau hơn.
Hiểu nhau hơn không có nghĩa là thích hoặc đồng ý lẫn nhau, nhưng ít nhất có sự hiểu biết về quan điểm và tâm trạng của người khác. Nhờ vậy, sẽ có những cách đối xử hoặc biện pháp đối phó có tính cách nhân bản và/hoặc dè dặt trong những mâu thuẫn hoặc xung đột.
2. Thơ chính trị:
Thơ là một phần của thi ca, và như âm nhạc, nội dung thơ có nhiều thể loại: tình yêu, cảnh vật, cuộc sống, con người, xã hội, quê hương, chính trị, v.v. Trong chính trị, thơ có thể có hai loại: chống đối và kêu gọi. Sự phân loại thường không rõ rệt vì hai loại có thể được ghép chung vào một.
Như các hình thức chống đối bằng nghệ thuật, thơ là một khí cụ thường được dùng để bày tỏ ý tưởng chống đối. Thơ chống đối thường tấn công một hay nhiều vấn đề nào đó trong xã hội và nhắm vào chính quyền. Các vấn đề này có thể là bất kỳ vấn đề gì ảnh hưởng đến cuộc sống của dân, từ văn hóa cho đến kinh tế, cơ cấu chính quyền, và ngoại giao. Thơ kêu gọi thường kêu gọi, hô hào, kích động khán giả tham gia vào một hoạt động nào đó để đạt một mục tiêu chính trị. "Sức mạnh của thơ dùng là khí cụ chống đối là một bài thơ xuất sắc lôi kéo chúng ta, máu và xương, con tim và trí tuệ, trong việc cung cấp hoặc kích động sự chống đối" (Kenseth 1968, xvi). Hoạt động đó có thể là sự bày tỏ phản ứng hoặc thái độ của dân về một sự chống đối đặc biệt, thí dụ hô hào dân biểu tình chống lại phí phạm ngân sách trong việc xây tượng đài Hồ Chí Minh. Thông thường, thơ kêu gọi gồm có sự chống đối, nhưng thơ chống đối không nhất thiết gồm có, hoặc dẫn đến, lời kêu gọi.
Một trong những bài thơ chống đối nổi tiếng nhất là bài "The Masque of Anarchy" (Mặt Nạ của Phi Pháp) của Percy Bysshe Shelley (1792-1822), thi sĩ và văn sĩ Anh. Shelley víết bài "The Masque of Anarchy" cho vụ thảm sát tại Manchester, còn được gọi là thảm sát Peterloo, vào năm 1819. Bài thơ được coi có ảnh hưởng trên Leo Tolstoy và Mahatma Gandhi và các cuộc đấu tranh bất bạo động (Wikipedia 2015c). Bài thơ gồm có 91 đoạn. Mỗi đoạn có bốn câu. Đoạn 8 và 9 của bài thơ như sau:
VIII.
Last came Anarchy: he rode
On a white horse, splashed with blood;
He was pale even to the lips,
Like Death in the Apocalypse.
IX.
And he wore a kingly crown;
And in his grasp a sceptre shone;
On his brow this mark I saw—
"I am God, and King, and Law!"
(Rồi tên Phi Pháp đến sau
Cưỡi con ngựa trắng vấy màu máu tươi
Làn da tái nhợt cả môi
Trông như thần chết trong thời đổi thay
Trên đầu vương miện trưng bày
Sáng ngời quyền trượng trong tay kẻ tà
Dấu hằn trên trán ghi ra
"Trời, Vua, Luật Lệ, chính là tao đây!")
Một cách tiên tri, trong bài thơ "The Masque of Anarchy," Shelley mô tả tình trạng xã hội hỗn loạn, phi pháp, không có chính quyền, y như tình trạng tại Việt Nam hiện nay, khi nhóm cầm quyền coi họ như Trời, Vua, và Luật Lệ.
Tuy mục đích gần của thơ chống đối là chống chính quyền, mục đích xa và quan trọng hơn là cải thiện xã hội, cuộc sống dân, và đôi khi cứu nguy cho đất nước. Do đó, thông thường thơ chống đối có mục tiêu cứu dân độ thế, và nhắc đến lịch sử quốc gia. Khái niệm này được nhấn mạnh bởi Czesław Miłosz (1911 - 2004), người đoạt giải Nobel về văn chương năm 1980. Miłosz viết bài thơ "Dedication" (Lời đề tặng) vào năm 1945. Trong bài thơ "Dedication," Milosz nói với một thi sĩ trẻ, chết trong lúc Đức quốc xã chiếm đóng Warsaw (Nair 2011). Một đoạn trong bài như sau:
What is poetry which does not save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats will be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
(Thơ là gì nếu không cứu
Quốc gia và dân chúng?
Là đồng lõa với dối trá chính quyền,
Là bài hát cho những kẻ ghiền rượu bị cắt cổ trong giây lát,
Là bài đọc cho các cô học trò lớp mười.)
Đối với Milosz, một bài thơ mà không nhắm vào việc cứu giúp dân chúng hoặc tổ quốc thì chỉ là bài đọc vô ích. Với ông, lịch sử rất quan trọng trong thơ. "Milosz đem lịch sử vào thơ ông vì ông cảm thấy lịch sử dẫn dắt chúng ta, dù chúng ta không thể khám phá tại sao và làm sao" (Lazer 2003). Việc tiếp xúc với lịch sử cũng phải được bao gồm trong thơ vì ta không thể tách rời học sử và học ngôn ngữ (sđd.). "Milosz coi trách nhiệm viết của ông là nhớ những người đã chết trong cuộc nổi dậy và trại tập trung và những người vẫn còn chịu đau khổ trong lao tù" (Heaney 2011). Theo Milosz, có một mức độ ý thức dùng để đánh giá thơ và thơ ở dưới mức độ ý thức đó là thơ dở và thơ đó không cứu được ai hết (Addonizio và Laux 1997, 66). Do đó, chính khía cạnh ý thức quyết định tính chất của thơ, cho dù thơ không nói trực tiếp đến các đề tài chính trị hoặc lịch sử (sđd.).
Thơ chống đối không nhất thiết trực tiếp phản đối chính quyền. Nhiều khi, thơ chống đối chỉ cần trình bày các khía cạnh tệ mạt của xã hội. Vạch ra những tệ trạng xã hội hoặc những hình ảnh gợi ra sự độc tài, tàn bạo, thối nát, tham nhũng của chính quyền cũng là một cách chống đối. Sau đây là vài thí dụ về các bài thơ Việt Nam có tính chất chống đối.
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
(Trần Dần - Nhất định thắng)
"Không có gì quý hơn độc lập tự do"
Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó
Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó
Việc nó làm, tội nó phạm ra sao
(Nguyễn Chí Thiện - "Không có gì quý hơn độc lập tự do")
Thơ chống đối có thể có hay không có hàm ý kêu gọi người dân đòi hỏi chính quyền thỏa mãn sự chống đối. Khi lời kêu gọi không rõ rệt, người đọc có thể không hiểu ý định của tác giả.
Tuy thơ chính trị phản ảnh sự khác biệt ý tưởng giữa dân và chính quyền, và thường biểu lộ sự bất mãn của người dân đối với các hiện trạng xã hội hoặc các hành động chính quyền, mục tiêu tối thượng của thơ chính trị, như mọi loại thơ khác, là tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau và mang con người lại gần nhau hơn. Khi có những bất công trong xã hội, hoặc khi chính quyền bất chấp nguyện vọng của người dân, hoặc có những hành động đi ngược lại quyền lợi quốc gia tổ quốc, con người bị tách xa nhau và tạo nên căng thẳng, mâu thuẫn, và có thể dẫn đến xung đột bạo lực. Do đó, thơ chính trị có mục đích xóa bỏ những cản trở này để đem lại ổn định và trật tự cho xã hội và quốc gia. Ngoài ra, trong một nước dưới chế độ độc tài, điển hình là nước Việt Nam cộng sản hiện nay, chế độ cộng sản là một cản trở cho sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau. Thơ chính trị (chống đối và/ hoặc kêu gọi), do đó, nhắm vào đánh đổ sự cản trở này để đem con người lại gần nhau hơn.
Một khía cạnh quan trọng về thơ chống đối và/ hoặc kêu gọi, nhất là trong thơ Việt Nam, là thể loại của bài thơ. Với một bài thơ chống đối thuần túy và không có mục đích kêu gọi hay hô hào, loại thơ nào cũng thích hợp. Đó là vì trong trường hợp này, khía cạnh chống đối coi như là diễn tả ý tưởng về một tình trạng xã hội và do đó thể loại thơ nào cũng có thể được dùng tùy vào ý thích của tác giả. Khi bài thơ vửa chống đối vừa kêu gọi, thể loại thơ đóng vai trò quan trọng vì mỗi thể loại có tác dụng kêu gọi khác nhau.
Để có thể tạo tác dụng mạnh trong việc kêu gọi dân chúng, lời kêu gọi nên có những khía cạnh thích hợp. Ta nên nhớ một bài thơ không phải là một bài diễn văn, và khán giả thường không có nhiều thì giờ để nghiền ngẫm về ý nghĩa của câu thơ. Lời kêu gọi cũng đánh vào tâm hồn khán giả, vì yếu tố tình cảm khá quan trọng trong việc kích động ý chí con người. Ngoài ra, thơ kêu gọi nên dễ đọc và dễ nhớ để có thể được truyền bá rộng rãi trong dân chúng. Vì những lý do này, thể loại thơ thích hợp cho kêu gọi là thơ có vần, vì vần điệu giúp lời thơ trôi chảy, dễ đọc và dễ nhớ. Trong các thể loại thơ có vần Việt Nam, có lẽ thể bốn câu liên kết hoặc song thất lục bát là thích hợp nhất cho thơ kêu gọi, vì vần điệu chặt chẽ, có cả vần bằng và vần trắc, và câu thơ có móc nối, giúp ý tưởng mạch lạc.
Những khái niệm căn bản về thơ, và tính chất và mục đích của thơ chính trị giúp ta hiểu rõ hơn về bài thơ "Kiếp Lưu Vong."
Sửa bởi người viết 27/08/2015 lúc 10:50:26(UTC)
| Lý do: Chưa rõ