logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 18/09/2015 lúc 05:57:51(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,156

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Có khoảng 70 – 100 nhà hoạt động nhân quyền và hoạt động xã hội phải đối diện với lệnh cấm xuất ngoại và hạn chế đi lại

trong nước thiếu căn cứ pháp lý của nhà cầm quyền Việt Nam. [1]


Những hạn chế này được ban hành nhằm trừng phạt, ngăn ngừa và xâm phạm quyền tự do cơ bản của họ trong việc tham

gia vào các hoạt động nhân quyền, liên kết với các nhà hoạt động nhân quyền trong khu vực và quốc tế.


1. Quyền tự do đi lại là gì?


Quyền tự do đi lại bao gồm:


1. Quyền tự do di chuyển trong phạm vi quốc gia hay vùng lãnh thổ;


2. Quyền lựa chọn một nơi cư trú trong phạm vi quốc gia hay vùng lãnh thổ;


3. Quyền rời khỏi bất cứ nước nào, kể cả quốc gia của chính mình; và


4. Quyền được nhập cảnh vào quốc gia của mình


Quyền xuất cảnh và nhập cảnh của mỗi cá nhân phải nhất thiết bao hàm cả quyền sở hữu và làm mới các hồ sơ giấy tờ

đảm bảo cho yêu cầu đi lại.


2. Làm thế nào để các nhà cầm quyền Việt Nam hạn chế quyền tự do đi lại của các nhà hoạt động?


Theo các quan sát viên nhân quyền độc lập, các nhà hoạt động bảo vệ các nhà hoạt động nhân quyền và các nhà hoạt

động đối diện với một loạt các hạn chế về quyền tự do đi lại, bao gồm và không giới hạn bởi những điểm sau đây:


1. Các nhà hoạt động bị tịch thu hộ chiếu sau khi trở về từ các chuyến đi nước ngoài hoặc trước khi chuẩn bị xuất ngoại.


2. Các cơ quan chức năng đã từ chối hoặc không đáp ứng các đơn xin cấp hộ chiếu mới hoặc gia hạn hộ chiếu.


3. Các nhà hoạt động có hộ chiếu hợp lệ thường bị ngăn cản khi làm thủ tục lên máy bay tại sân bay với lý do thường gặp

là việc đi lại của họ sẽ “đe doạ an ninh quốc gia”.


4. Nhân viên an ninh thường phục hoặc sắc phục sách nhiễu và ngăn chặn các nhà hoạt động rời khỏi nơi cư trú để tham

gia vào các hoạt động ôn hoà như gặp gỡ các nhà hoạt động khác, các nhà ngoại giao, nhà báo, và các nhóm nhân quyền.


5. Các nhà hoạt động bị ngăn chặn bằng vũ lực, bị tạm giữ hoặc bị thẩm vấn bởi các nhân viên an ninh hoặc nhân viên an

ninh mặt thường phục trong khi họ đang trên đường đi đến tham dự các sự kiện hoạt động ôn hòa hoặc sau khi họ quay

trở về nước từ các chuyến xuất ngoại.

6. Các tù nhân lương tâm một số sau khi được trả tự do bị trục xuất sang nước khác và không được phép trở về.


Không có bằng chứng nào xác đáng từ nhà chức trách nhằm đưa ra lời giải thích cặn kẽ bằng văn bản để từ đó có thể

chứng minh được các hạn chế này là hợp lý dựa theo các tiêu chuẩn và luật quốc tế về nhân quyền.


3. Liệu quyền tự do đi lại có được đảm bảo theo quy định của luật pháp Việt Nam?


CÓ. Theo điều 23 [2] của hiến pháp Việt Nam đã nêu rõ:


Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện

các quyền này do pháp luật quy định.


NHƯNG, nghị định số 136, do Bộ Công An ban hành năm 2007, đưa ra các giới hạn rộng lớn về quyền tự do đi lại. Theo

điều 21 và 23 của nghị định này, bộ công an có toàn quyền ngăn cấm công dân mang quốc tịch Việt Nam đi lại hoặc nhập

cảnh với lý do thường gặp là “bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội ”. Nghị định này không đưa ra được định

nghĩa xác đáng hoặc các tiêu chuẩn để áp dụng cho các lý do ngăn cấm này và cũng như xác định được các điều kiện

tương ứng khi áp dụng.


Một cơ quan nhà nước độc lập là một cơ quan phải đảm bảo cung cấp đầy đủ thông báo cho công dân về quyết định của

cơ quan đó (không xét đến lý do đưa ra quyết định đó) về việc ngăn cấm công dân của họ xuất cảnh, nhưng đằng này lại

có toàn quyền không thực thi những quy định đó với lý do không cần thiết phải đưa ra thông báo vì “liên quan đến công tác

điều tra tội phạm và lý do bảo vệ an ninh”


Nghị định này cho phép công dân “có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật”, nhưng lại không nêu rõ những quy định

nào để tham chiếu. Nghị định này cũng không chỉ rõ cơ quan giám sát về luật pháp đối với các cấp có thẩm quyền từ chối

(hay phục hồi) quyền của công dân trong việc xuất cảnh và nhập cảnh.


4. Liệu Việt Nam có hay không có trách nhiệm thực thi luật quốc tể và các tiêu chuẩn nhằm tôn trọng và bảo vệ quyền tự do đi lại?

CÓ. Việt Nam là một nhà nước có tư cách thành viên trong công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR) [3].

Theo điều 12 của ICCPR quy định:


1. Mọi công dân có đầy đủ quyền theo luật pháp trong lãnh thổ của quốc gia thành viên đó có quyền tự do đi lại và tự do

chọn lựa nơi cư trú trog lãnh thổ của quốc gia đó.


2. Mọi công dân có quyền tự do đi lại bất kỳ quốc gia nào, bao gồm cả quốc gia mang quốc tịch.


3. Ngoại trừ các điều được pháp luật quy định, các quyền được quy định ở trên không bị ràng buộc bởi các quy định ngăn

cấm là cần thiết nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trận tự xã hội, sức khỏe cộng đồng hoặc các giá trị đạo đức hoặc các

quyền và quyền tự do của người khác, và phù hợp với những quyền khác được công nhận trong công ước này.


4. Không một công dân nào bị tước đoạt một cách tùy tiện quyền nhập cảnh vào quốc gia của chính họ.


Trong nội dung của bản bình luận phổ quát số 27 [4], UB nhân quyền LHQ, là văn bản giải thích và giám sát việc thi hành

các quy định của ICCPR, đưa ra các giải thích rộng hơn về tính cần thiết phải có quyền này và sát hạch một cách chặt chẻ

các quy định ngăn cấm được phép áp dụng.


Điều 5(d)(i) và 5(d)(ii) của Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử (ICERD), mà Việt Nam là một

quốc gia thành viên, cũng quy định rõ nhằm bảo vệ quyền tự do đi lại. [5]


Điều 1 của Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc về Người bảo vệ Nhân quyền (1998) [6] nêu rõ:


Mọi người có quyền, cá nhân và kết hợp cùng với người khác, cổ xúy và nỗ lực bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn

bản ở cấp quốc gia và quốc tế


Mục đích tối quan trọng của việc tự do đi lại đối với các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền được minh chứng rõ hơn trong

điều 5(c) và điều 9(4) của tuyên ngôn này:


Điều 5(c) Vì mục tiêu cổ súy và bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản, mọi người có quyền, cá nhân và liên kết

cùng người khác, ở cấp quốc gia hay quốc tế: […] (c) Giao tiếp với các tổ chức phi chính phủ hay liên chính phủ.


Điều 9(4) Cũng để đạt được mục tiêu này, và theo các thiết chế và thủ tục quốc tế nếu có, tất cả mọi người có quyền, cá

nhân và liên kết với những người khác, tiếp cận và thông tin liên lạc với các cơ quan quốc tế có thẩm quyền tổng quát hoặc

thẩm quyền đặc biệt, mà không bị ngăn cản, để tiếp nhận và cân nhắc các thông tin về những vấn đề nhân quyền và các

quyền tự do căn bản.


Các quy định ngăn cấm đi lại rõ ràng hủy hoại các quyền của công dân trong việc tham gia sâu rộng và tự do vào các hoạt

động nhân quyền ở tầm mức quốc tế. Trong báo cáo hàng năm cho năm 2014 [7] của tổng thư ký LHQ về chính sách trả

đũa chống lại các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền vì họ đã có hợp tác cùng các cơ quan nhân quyền LHQ, tổng thư ký

LHQ Ban Ki-moon đã nhắc lại quan điểm của ông đối với các sai phạm đó, bao hàm cả việc ngăn cấm đi lại, “[các quy định

ngăn cấm đó] là không thể chấp nhận được và có ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò hoạt động của LHQ, bao gồm vai trò của

các cơ quan bảo vệ nhân quyền trực thuộc”. Báo cáo của tổng thư ký LHQ đã nhấn mạnh đến chính sách trả đũa chống lại

các nhà hoạt động tôn giáo như ông Lê Công Cầu và nhà báo độc lập ông Phạm Chí Dũng ở Việt Nam, cả hai nhà hoạt

động này điều bị cấm đi lại.


5. Các quy định ngăn cấm tự do đi lại có được xem là chấp nhận được không?

CÓ, NHƯNG các qui định ngăn cấm này chỉ được xem là chấp nhận được trong Điều 12, khoản 3 của Công ước này. Cụ

thể là các quy định này phải đáp ứng các điều sau:


1. Theo quy định luật pháp. Các quy định ngăn cấm phải được diễn giải công khai một cách rõ ràng, cụ thể. Lực lượng

chức năng không được sử dụng quy định này một cách vô lối, tuỳ tiện để áp dụng các hạn chế.


2. Cần thiết và cụ thể để bảo vệ một trong những điều khoản quy định hợp pháp tại Điều 12, khoản 3 của Công ước. Các

quy định tương xứng đòi hỏi quy định hạn chế này phải được xem là “công cụ có tính chất xâm hại ở mức thấp nhất có thể

trong số các mục tiêu mà quy định ngăn cấm nhắm đến” [chương 8 nhấn mạnh thêm] [8]. Trách nhiệm chứng minh tính

hợp pháp, sự hợp lệ, sự cần thiết và sự thích đáng của các hạn chế ban hành đó phải được nhà nước đó thực thi.


3. Phù hợp với các quyền con người khác trên nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử. Tính nhất quán đòi hỏi nhà

nước thành viên không được ngăn cấm quyền tự do đi lại bằng cách tạo ra các đặc quyền ngăn cấm bằng cách này hay

cách khác, như dựa trên các giá trị về tôn giáo hoặc chính kiến hoặc các lý do khác [9]. Điểm cốt lõi là làm sao tất cả mọi

người đều được hưởng quyền tự do đi lại theo ICCPR.


Các quy định ngăn cấm chỉ có thể được áp dụng trong các trường hợp sau, ví dụ, xâm phạm trái phép tài sản riêng, xâm

phạm các khu vực di tích lịch sử, môi trường hoặc những người đang mang bệnh truyền nhiễm cần được cách ly


Mặt khác, việc cấm một người xuất ngoại chỉ để ngăn chặn họ tham gia các khóa đào tạo về quyền con người được xem

như là vi phạm đến quyền tự do đi lại. Việc hạn chế quyền tự do của những người bảo vệ nhân quyền cũng ảnh hưởng

đến quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin không biên giới và quyền tự do lập hội ôn hoà của họ bên trong

và ngoài biên giới Việt Nam.


Các, quy định mơ hồ diễn đạt theo Điều 21(6) trong Nghị định 136 (năm 2007) về việc cấm công dân Việt Nam xuất cảnh

không tuân thủ theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về tính hợp pháp, tương xứng và cần thiết của các quy định ICCPR.


6. Việc ép buộc một công dân nào đó phải sống lưu vong có vi phạm vào quyền tự do đi lại không?


CÓ. Không cho phép một người quay về đất nước của mình chính là hành vi cấu thành sự vi phạm đối với Điều 12, khoản

4 của ICCPR, nếu việc cấm đoán đó không đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định đã nói ở trên. Hơn nữa, Điều 9 của Bản

Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (UDHR) nêu rõ rằng: “Không một ai bị bắt giữ, giam giữ hoặc đày đi nơi khác một cách

độc đoán.”


Điều 23 của Nghị định số 136 (2007) cho phép cơ quan ngoại giao Việt ở nước ngoài thu hồi hoặc từ chối cấp giấy tờ xuất

nhập cảnh cho công dân Việt trên cơ sở "bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội theo quy định của Bộ trưởng Bộ

Công an". Quy định này bao gồm cả khái niệm không rõ ràng về “an toàn xã hội ", nó không đáp ứng các quy định trong

Điều 12 của ICCPR

7. Cộng đồng quốc tế nên và cần làm gì?


Các Đại Sứ Quán và nhà ngoại giao của các nước lớn, đặc biệt là những nước có hợp tác và đối thoại nhân quyền song

phương với Việt Nam, nên:


1. Giám sát và lập hồ sơ các trường hợp vi phạm về quyền tự do đi lại đối với trường hợp của những người bảo vệ nhân

quyền và các nhà hoạt động tại Việt Nam;


2. Tiếp xúc và hỗ trợ cho những nhà hoạt động bảo vệ quyền con người đang phải đối diện với các lệnh cấm xuất cảnh và

những người đang có yêu cầu khôi phục quyền lợi về mặt pháp lý và để chấm dứt các quy định ngăn cấm đó;


3. Tích cực tham gia và kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam, đặc biệt là Bộ Công an, gỡ bỏ và không ban hành có chủ đích

các quy định ngăn cấm tự do đi lại. Việc này nên được thực hiện không chỉ ở Việt Nam, mà còn tại cơ quan ngoại giao của

Việt Nam tại các thủ đô, tại Hội đồng Nhân quyền và trong các cuộc hội đàm đối thoại song phương và quốc tế khác.


Các cơ quan của Liên Hiệp Quốc nên tiếp tục theo dõi, lập hồ sơ và có biện pháp tích cực chống lại mọi sự trả đũa nhắm

vào các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền người Việt Nam trong các hoạt động hợp tác hoặc các kế hoạch hợp tác với

các cơ quan nhân quyền Liên Hợp Quốc. Các tổ chức đại diện LHQ tại Việt Nam kết hợp các vấn đề liên quan đến quyền

tự do đi lại với các chính sách hỗ trợ và đàm phán với các cơ quan chính phủ Việt Nam. Điều này cần được thực hiện với

mục đích khuyến khích chính phủ Việt Nam áp dụng vào luật pháp của họ trong nổ lực thực thi các luật nhân quyền quốc tế

và các tiêu chuẩn liên quan đến quyền tự do đi lại.

Bản tiếng anh: http://www.civilrightsde...org/files/QA-Vietnam.pdf

Ngày 14 tháng 9 năm 2015

Bao Thien, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh dịch
______________
Chú thích:
[1] Chú giải: tham khảo báo cáo, điển hình “Bất chấp đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt, các nhà hoạt động bị từ chối quyền đi

lại”, ngày 07/5/2015,

vietnamrightnow.com/2015/05/despite-us-vietnam-human-rights-dialogue-activists-denied-right-to-travel/ ; “hai cá nhân nữa

bị cấm xuất ngoại”, ngày 17/4/2014, vietnamrightnow.com/2014/04/two-more-barred-from-leaving-the-country/; PHỎNG

VẤN: Tôi hành xử theo quyền của tôi để tuyên bố không làm gì sai trái: LM Dinh Huu Thoai, ngày 31/3/2014,

vietnamrightnow.com/2014/03/interview-iexercise-my-right-to-denounce-wrong-doings-rev-dinh-huu-thoai/ ; “phái đoàn

tham dự phiên họp của UPR bị tạm giữ khi quay trở về, hộ chiếu bị tịch thu” ngày 24/2/2014,

[2] Xem thêm Nghị định 136/2007/ND-CP ban hành ngày 17/08/2007 về việc xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam tại :
http://www.customs.gov.v...anguage=en-US&ID=976

[3] Toàn văn Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị có sẵn tại :
http://www.ohchr.org/en/...interest/pages/ccpr.aspx

[4] Toàn văn Bình luận phổ quát số 27 có sẵn tại :
http://tbinternet.ohchr....2frev.1%2fadd.9&lang

=en

[5] Toàn văn Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử (ICERD) có sẵn tại:

http://www.ohchr.org/EN/...Interest/Pages/CERD.aspx

[6] Toàn văn bản Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc về Người bảo vệ Nhân quyền có sẵn tại:

http://www.ohchr.org/EN/...s/Pages/Declaration.aspx

[7] Báo cáo hàng năm cho năm 2014 của tổng thư ký LHQ về chính sách trả đũa chống lại các nhà hoạt động bảo vệ nhân

quyền vì họ đã có hợp tác cùng các cơ quan nhân quyền LHQ. Tài liệu số A/HRC/27/38, ngày 27/08/2014. Toàn văn có

sẵn tại:
http://www.ohchr.org/EN/...ents/A_HRC_27_38_ENG.doc

[8] Xem chú giải Bình luận chung số 27 của Ủy ban Nhân quyền (1999) về tự do đi lại, đoạn 14.

[9] Ibid., đoạn 18.
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.412 giây.