logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
chung  
#1 Đã gửi : 22/10/2015 lúc 05:45:44(UTC)
chung

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 16-07-2013(UTC)
Bài viết: 1,773

UserPostedImage
Diễu hành mừng chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 2014. AFP

Các quốc gia trên địa cầu, từ đông sang tây, đều có hai nhu cầu căn bản: đó là quốc phòng và trị an. Quân đội có trách nhiệm

quốc phòng và công an cảnh sát có trách nhiệm trị an.

Trong một nước dân chủ như Hoa Kỳ, chịu ảnh hưởng của các tư tưởng gia khai quốc công thần, đặc biệt là Samuel Adams

(1722-1803) và Alexander Hamilton (1755-1804) thì quân đội chịu sự điều khiển của một chính quyền dân sự. Tổng thống

Hoa Kỳ là tổng tư lệnh quân lực (commander-in-chief) của các lực lượng võ trang Hoa Kỳ. Các lực lượng an ninh từ tiểu bang

đến Liên Bang như cảnh sát tiểu bang, cảnh sát liên bang hoặc FBI cũng chịu quyền điều khiển của các chính quyền dân cử

các cấp.

Các quốc gia dân chủ trên thế giới, từ tổng thống chế như Hoa Kỳ, đến quốc hội chế như Anh Quốc, hoặc mô thức hỗn hợp

như Pháp, đều chấp nhận nguyên tắc các lực lượng vũ trang và an ninh phải chịu sự điều khiển của chính quyền dân sự.

Trong các nước dân chủ thì có sự cộng sinh giữa nhiều chính đảng và lực lượng chính trị khác nhau, luân phiên nắm quyền

qua các cuộc bầu cử tự do và trong sáng. Dù chính quyền có thay đổi thì các lực lượng quân đội và an ninh vẫn phải phục

tùng chính quyền tân lập, triệt để thuận theo lòng dân. Quân đội và các lực lượng an ninh không trung thành với bất cứ một cá

nhân hoặc đảng phái nào. Họ chỉ trung thành và bảo vệ tổ quốc, qua sự quy định của một bản hiến pháp dân chủ thực sự.

Tuy nhiên, trong một thể chế độc tài thì vai trò của quân đội và công an không còn là trung thành và bảo vệ tổ quốc nữa. Lý do

là vì, hơn ai hết, các chế độ độc tài ý thức tòan diện vai trò của quân đội và công an như là những phương tiện tuyệt vời để

cướp chính quyền và nắm giữ chính quyền lâu dài.

Trong lịch sử loài người, các chính quyền độc tài, ngay từ thủa bình minh của nhân loại, đều thiện nghệ trong việc duy trì

quyền lực độc tôn của mình bằng hai phương tiện chính. Đó là quân đội và công an.

Dĩ nhiên còn rất nhiều phương tiện khác các chế độ này sử dụng. Chẳng hạn kiểm soát thông tin, giới hạn sự đi lại, nghiêm

cấm không được tụ tập mà không có xin phép và được cho phép trước, hệ thống tòa án hoàn toàn do hành pháp kiểm soát,

suy tôn và thần tượng hóa lãnh tụ v..v..

Tuy nhiên quân đội và công an là những phương tiện chính và được Đức Quốc Xã, dưới sự lãnh đạo của nhà độc tài khét

tiếng Hitler, rèn luyện và sử dụng tuyệt luân. Quân đội Đức (Wehrmacht) là công cụ hùng mạnh để Hitler xâm chiếm các nước

Âu Châu khác, xây dựng bá quyền. Công an mật vụ võ trang (SS) được sử dụng, không những để kiểm soát dân chúng và

mọi thành phần khác của xã hội dân sự, mà không kém phần quan trọng, là để kiểm soát quân đội và các tướng lãnh có tham

vọng khác.

Tuy nhiên, không có chế độ độc tài nào sử dụng quân đội và công an sâu sắc và hiệu năng, để duy trì quyền lực lâu dài bằng

hai nhân vật trùm cộng sản là Lenin và Stalin. Tuy Lenin là người tiên phong trên phương diện độc tài chuyên chính, nhưng

Stalin mới là kẻ mài dũa phương thức đến độ lạnh lùng, tàn khốc chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Hitler giết 6 triệu người

Do Thái vô tội qua các lực lượng an ninh, trong khi Stalin giết 20 triệu người Nga vô tội qua mật thám Xô Viết. Các chính

quyền cộng sản trên thế giới, từ Trung Quốc, Bắc Hàn đến Việt Nam đều thừa hưởng truyền thống cai trị bằng công an và

quân đội này.

Năm 1991, trước khi Liên Bang Xô Viết cáo chung, tuy bề mặt Hồng Quân Xô Viết chia rẽ giữa phe ủng hộ Yeltsin (Liên Bang

Nga) và phe ủng hộ nhóm Bát Nhân Bang (Liên Bang Xô Viết) đảo chánh Gorbachev, đưa Yanayev lên nắm quyền hầu duy trì

quyền lực của Đảng Cộng Sản Liên Bang Xô Viết. Nhóm Bát Nhân Bang cố gắng duy trì Đảng Cộng Sản Liên Bang Xô Viết

hầu một cách gián tiếp duy trì Liên Bang Xô Viết như một thực thể chính trị.

Tuy nhiên, thực trạng là đa số tướng lãnh của Hồng Quân Liên Xô đều ý thức được rằng, trong LBXV thực sự chỉ có Nga Sô

là gánh vác mọi chi phí của tòan bộ Hồng Quân Xô Viết và không còn kham nổi chi phí quá lớn lao nữa. Họ cảm thấy họ chỉ

yêu và trung thành với Liên Bang Nga. Đối với họ, Liên Bang Xô Viết là một thí nghiệm điên rồ, phung phí, thất bại và đã đến

lúc phải cáo chung.

Không còn sự ủng hộ của Hồng Quân Xô Viết, phe đảo chánh Bát Nhân Bang và Đảng Cộng Sản LBXV tan rã. Lần lượt các

cộng hòa khác nhau trong LBXV nhanh chóng thay phiên tuyên bố độc lập.

LBXV không còn hiện hữu và Gorbachev bắt buộc phải từ chức tổng thống của một thực thể chính trị đã cáo chung vào cuối

năm 1991.

Việc đầu tiên dân chúng Liên Xô làm sau khi lật đổ Bát Nhân Bang là đạp đổ tượng của ông tổ KGB là Felix Dzerzhinsky,

người sáng lập công an mật vụ KGB năm 1917.

Điểm tương đồng chúng ta nhận thấy trong mọi cuộc nổi dậy của quần chúng đạp đổ độc tài, từ xưa đến nay là, tuy các chế

độ độc tài có tính công an trị, nhưng mật vụ và công an lại hòan tòan vắng bóng trong các biến động có tính quần chúng này.

Chỉ có quân đội là giữ một vai trò then chốt. Đây là một hiện tượng cần được phân tách và lý giải để có thể rút kinh nghiệm

cho một cuộc nổi dậy tại Viêt Nam trong tương lai.

Cách đây vài năm (2010-2013), cuộc cách mạng Mùa Xuân Á Rập (Arab Spring) tại các nước Bắc Phi và Trung Đông như

Tunisia, Ai Cập (đã thành công), Lybia, Bahrain, Yemen, Marocco, Saudi Arabia ...cho ta các nhận xét sau đây:

1.Các quốc gia này đều độc đảng trên thực tế hoặc trên nguyên tắc, hoặc quân chủ chuyên chế. Các chính quyền đã tại vị từ

nhiều thập niên qua mà không có bầu cử tự do. Các cuộc bầu cử phần lớn là gian lận hoặc “đảng cử dân bầu” tương tự Việt

Nam. Các quốc hội thông thường là quốc hội bù nhìn cũng tương tự ViệtNam.
2.Có ba thanh phần xã hội liên hệ chặc chẽ với nhau và được phân phát của cải vượt lên trên những thành phần xã hội khác:

đảng viên (hoặc hòang gia), giới lãnh đạo quân đội và công an. Những thành phần này giầu có cỡ quốc tế trong những xã hội

còn nghèo khổ. Hố sâu giữa người dân lao động, nông dân và 3 thành phần thượng lưu trên ngày càng đậm nét thêm.
3.Dân chúng căm phẫn công an nhiều hơn là căm phẫn quân đội, mặc dầu dân chúng đánh giá quân đội như là yếu tố có tính

quyết định cao hơn công an cho sự thành công hay thất bại của các cuộc cách mạng. Tuy công an là công cụ hữu hiệu để

kiểm sóat và đàn áp, nhưng một khi dân chúng đã hết sợ và đứng lên, thì công an được đánh giá như không còn khả năng đối

phó nữa.
4.Thực tế cho thấy rằng, mặc dầu quân đội có khả năng đàn áp dân chúng và giải tán biểu tình, nhưng quân đội tại Tunisia và

Ai Cập đã đứng hẳn về phía dân tộc và ủng hộ những cải cách dân chủ thay vì tiếp tục trung thành với các thể chế độc tài.
5.Cường độ chống đối chính quyền trong những quốc gia có quá trình cải cách dân chủ thực sự ( Marocco, Jordan) thấp hơn

cường độ chống đối tại những quốc gia có chính quyền bảo thủ và tham quyền cố vị (Tunisia, Egypt, Yemen, Bahrain, Saudi

Arabia). Điều này chứng tỏ một chân lý mà người cộng sản Trung Quốc lẫn Việt Nam luôn chối bỏ. Đó là một quốc gia càng

dân chủ thì càng ổn định trên phương diện chính trị. Duy trì các chính quyền độc tài tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, về lâu

về dài, sẽ đưa đến những bất ổn sâu xa cho quốc gia, khu vực và cho nền hòa bình thế giới. Dân chủ hóa Trung Hoa, Việt

Nam và Bắc Hàn sẽ đóng góp vô cùng lớn lao cho hòa bình nhân lọai trong thế kỷ 21.
Có hai câu hỏi chúng ta cần nêu ra:

1.Chế độ CSVN gần gũi với mô thức độc tài nào nhất trong lịch sử lòai người?
2.Trong tiến trình dân chủ hóa Việt Nam, quân đội và công an sẽ có vai trò gì?
Khi chúng ta duyệt lại lịch sử thành lập các đảng CSVN (1930) và CSTQ (1921) thì chúng ta nhận xét ngay rằng đảng CSVN

ngay từ đầu đã lệ thuộc rất nhiều vào Đệ Tam Quốc Tế dưới sự lãnh đạo của đảng CS Liên Xô. Ở điểm này, CSVN và CSTQ

hoàn toàn khác nhau.

Khi mới thành lập thì người CSVN lấy tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên sau đó thì theo chỉ thị của CS Liên Xô, Ông

Hồ Chí Minh phải đổi tên lại là Đảng CS Đông Dương, bao gồm Lào và Cam Bốt. Điều này cho chúng ta thấy rằng, ngay từ

những thập niên 30, CSLX đã e dè CSTQ và muốn đàn em của mình là CSVN phải ảnh hưởng đến Lào và Cam Bốt để giới

hạn sự bành trướng của TQ.

Dĩ nhiên trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam (1962-1975), Ông Hồ Chí Minh được sự viện trợ của cả 2 đàn anh CS qua

chính sách đu dây khéo léo. Tuy nhiên ảnh hưởng của CSLX vẫn vượt trội CSTQ cho đến ngày Liên Bang Xô Viết sụp đổ.

Tuy cùng là độc tài chuyên chính vô sản, nhưng có những sự khác biệt cơ bản trong phương thức cai trị độc tài của hai đảng

CS đàn anh khổng lồ trên.

Trước hết, trước khi cuộc cách mạng Bolshevik thành công tại Nga năm 1917 thì Nga Hòang cai trị đế quốc Nga bằng một bộ

máy công an sắt máu. Chính Lenin là người chịu nhiều khốn đốn vì guồng máy công an của Nga Hòang. Ngay sau khi vừa

cướp được chính quyền năm 1917, việc đầu tiên của Lenin là giao cho Felix Dzerzhinsky trách nhiệm thành lập một hệ thống

mật vụ siêu quyền lực, tuyệt đối trung thành với ông và có trách nhiệm đè bẹp tất cả mọi đối lập bằng tất cả mọi phương tiện

dù là bá đạo nhất. CSXV là một chế độ CS mang tính công an trị. Yếu tính này được chứng minh nổi bật khi chúng ta duyệt lại

tranh chấp nội bộ giữa Stalin và Trotsky sau khi Lenin qua đời (1924). Trotsky không những đã là Bộ Trưởng Quốc Phòng

(1918-1925) mà còn chính là người được Lenin giao cho trách nhiệm sáng lập và chỉ huy hồng quân Liên Xô. Trotsky cũng

được công nhận là lý thuyết gia CS sáng giá nhất sau Lenin.

Trong khi đó Stalin là tổng bí thư đảng, lúc đó chưa phải là một chức vụ tối quan trọng vì Lenin giữ chức vụ tương đương chủ

tịch nước (tức Hội Đồng Bộ Trưởng- Council of People’s Commissars) và uy tín của Lenin bao trùm đảng và nhà nước. Tuy

nhiên Stalin kiểm sóat mật vụ KGB. Qua mật vụ KGB, Stalin đã đánh bật Trotsky ra khỏi trung tâm quyền lực. Cuối cùng

Trotsky phải lưu vong và bị KGB ám sát tại Mễ Tây Cơ.

Vì thế, theo mô hình Liên Xô thì kẻ nào nắm được mật vụ KGB sẽ nắm được đảng và quyền lực tuyệt đối.

Trong khi đó, tình hình tại Trung Quốc khác hẳn. Đảng CSTQ sống còn và vươn lên trong khung cảnh hai cuộc chiến đẫm

máu. Đó là, một mặt, cuộc nội chiến quốc cộng giữa Đảng CSTQ và Trung Hoa Quốc Dân Đảng dưới sự lãnh đạo của Tưởng

Giới Thạch. Mặt kia là cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của Nhật Bản chiếm cứ Mãn Châu và nhiều cứ điểm khác.

Sau khi đảng CSTQ được thành lập, Stalin cũng đã gởi rất nhiều cán bộ do CSLX huấn luyện để tranh giành quyền lực trong

nội bộ đảng CSTQ với mục đích lọai Mao Trach Đông và phe nhóm của ông ra khỏi trung tâm quyền lực. Tuy nhiên Mao

Trạch Đông, ngòai sự kiện là một tư tưởng gia có nhiều sáng tạo, ông còn là một thiên tài quân sự. Ông đã chỉ huy cuộc vạn lý

trường chinh lịch sử, thóat khỏi sự truy kích của Tưởng Giới Thạch, xây dựng cơ sở, củng cố quân lực, góp phần vào việc

đánh đuổi quân đội Nhật và sau cùng chiến thắng Tưởng Giới Thạch, thống trị lục địa Trung Quốc. Dĩ nhiên Mao Trạch Đông

cũng không quên thanh trừng và tận diệt bè phái do Stalin cấy vào nội bộ CSTQ.

Trong cuộc vạn lý trương chinh, ông thường được gọi là Mao Chủ Tịch, không phải vì ông là chủ tịch đảng, hoặc chủ tịch nhà

nước, vì lúc đó chưa có 2 chức vụ này. Ông được gọi là Mao Chủ Tịch vì Ông là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Trung Ương

(UBQQTU), hoặc Quân Ủy Trung Ương, tương đương với chức vụ tổng tư lệnh quân lực ngày hôm nay.

Chính vì truyền thống này, căn bản quyền lực của hai đảng CSTQ và đảng CSLX hoàn toàn khác nhau.

Trong đảng CSTQ, kẻ nào nắm được quân đội sẽ nắm được đảng và sau đó chính quyền. Công an chỉ là một công cụ phụ

thuộc để kiểm soát dân chúng mà thôi.

Chính vì lý do đó, chúng ta thấy Đặng Tiểu Bình chỉ giữ một chức vụ phó thủ tướng tương đối khiêm nhượng trong chính

quyền, nhưng vẫn được suy tôn là lãnh tụ tối cao (paramount leader), ra lệnh cho Thủ Tướng Lý Bằng và Chủ Tịch Đảng Triệu

Tử Dương. Then chốt là vào thời điểm Thiên An Môn 1989 đó, Đặng Tiểu Bình giữ chức vụ chủ tịch Ủy Ban Quân Quản

Trung Ương như Mao Trạch Đông đã từng giữ. Cũng trong chức vụ bày, họ Đặng đã ra lệnh quân đội đàn áp đẫm máu tại

công trường Thiên An Môn, cứu đảng CSTQ.

Các lực lượng quân đội tại thủ đô Bắc Kinh đã từ chối không chịu nghe lệnh. Họ Đặng phải triệu quân đòan 27 từ miền Bắc

Trung Quốc, gần Ngọai Mông về. Các binh sĩ này không nói được thổ ngữ Bắc Kinh, không hiểu được ý dân và bị tuyên truyền

phải đàn áp phản lọan. Chính sự thiếu thông cảm giữa các binh sĩ và người dân biểu tình đã cứu chế độ CSTQ.

Sau khi LBXV sụp đổ, tuy CSVN có xích lại gần TQ nhưng đó chỉ là trên phương diện cải tổ kinh tế và ngọai giao. Trên bình

diện tương quan quyền lực nội bộ, CSVN vẫn theo mô hình của Liên Xô thủa xưa.

Từ khi thành lập, đưới ảnh hưởng của Liên Xô, các phe công an luôn luôn lấn quyền quân đội. Từ Lê Duẫn, Lê Đức Thọ đến

Nguyễn Tấn Dũng và Trần Đại Quang hôm nay đều xuất phát từ công an. Tướng Lê Khả Phiêu chỉ nắm quyền một thời gian

ngắn là bị truất phế.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc sinh tiền và những lận đận buồn cười của ông ta là ví dụ điển hình nhất cho vị trí lép vế của

quân đội so với công an trong nội bộ CSVN.

Như thế thì trong trường hợp xảy ra biến động quần chúng nổi dậy tại Việt Nam như Thiên An Môn(1989) tại Trung Quốc hoặc

tại Bắc Phi hôm nay thì quân đội và công an sẽ giữ vị trí nào?

Chúng ta nhận ngay rằng, sau Thiên An Môn, các chiến lược gia CSVN đã nghiên cứu bài học này. Họ thấy rằng, tuy công an

là công cụ quan trọng để kiểm soát, hù dọa dân chúng và ngăn cản sự nổi dậy của người dân, nhưng lực lượng công an tự

bản chất có nhiều khuyết điểm như một công cụ của độc tài.

Trước hết, muốn kiểm sóat dân thì công an phải gần với dân. Điều này hàm chứa nhiều hiểm nguy cho chế độ:

1.Trước hết là gần dân thì dễ bị tha hóa qua hối lộ hoặc những biện pháp tham nhũng khác.
2.Sau đó vì gần gũi sẽ có những quan hệ riêng tư, dân chúng lờn mặt và không còn sợ hãi.
3.Công an dễ bị nhận diện và có thể bị trả thù cá nhân. Công an trong các chế độ độc tài bị dân phục kích và đánh hội đồng là

chuyện thường xảy ra.
4.Một trong những trách nhiệm của công an là kiểm sóat những thông tin về dân chủ và nhân quyền không cho lọt vào tai dân

chúng. Nhưng chính các công an lại hiểu biết thêm về dân chủ và nhân quyền nên dễ bị tha hóa như là một công cụ đàn áp.
5.Kinh nghiệm trên khắp thế giới cho thấy, một khi quần chúng đã vượt qua sự sợ hãi đứng lên, thì công an triệt để trốn tránh

và biến mất tòan diện. Ngay cả tại Thiên An Môn hoặc tại Bắc Phi, những kẻ bị quần chúng nghi ngờ là công an trá hình bị

người dân đánh đập đến chết không thương tiếc.
Vì ý thức được khả năng đàn áp các cuộc nổi dậy có tính quần chúng của quân đội, vượt trội trên công an, nên CSVN đã có

những cố gắng để nâng số đại diện quân đội trong Trung Ương Đảng và Bộ Chính Trị sau Thiên An Môn. Điển hình nhất là

Thượng Tướng Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí Thư (1997-2002).

Các lãnh tụ CSVN cũng thường xuyên thăm viếng Võ Nguyên Giáp trong tuổi già, trao thêm huy chương, quà cáp, tưởng

thưởng vv... để lấy lòng giới quân đội. Sau khi Võ Nguyên Giáp từ trần thì tìm cách thần tượng hóa ông lên chín tầng mây để

núp bóng quân đội.

Thêm vào đó, Đại Hội 11 của đảng đã giao Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng giữ luôn chức vụ bí thư Quân Ủy Trung Ương

(QUTU), trong niềm hy vọng củng cố thêm sự kiểm sóat của đảng hầu hy vọng quân đội sẽ nghe lệnh đảng, đàn áp những

cuộc nổi dậy của dân chúng trong tương lai.

Đây là một mô thức CSVN học hỏi từ kinh nghiệm của Đặng Tiểu Bình.

Tuy nhiên CSVN quên một điều căn bản. Đó là muốn làm Tổng Tư Lệnh Quân Lực trên nguyên tắc thì dễ. Chỉ cần đảng bổ

nhiệm là được. Tuy nhiên, trên thực tế, trước khi làm chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Trung Ương thì Mao Trạch Đông lẫn Đặng

Tiểu Bình đều là những tướng lãnh vào sanh ra tử thật sự trên chiến trường Trung Quốc. Khác với Giang Trạch Dân và Hồ

Cẩm Đào của Trung Quốc bây giờ, lại càng khác với Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam hôm nay chưa bao giờ là một quân

nhân tướng lãnh thực sự cả.

Trong trường hợp dân chúng nổi dậy, đòi hỏi dân chủ, liệu các tướng lãnh chuyên nghiệp CSVN có nghe lệnh ông “Tổng Tư

Lệnh” Nguyễn Phú Trọng hay một tổng bí thư nào khác (nếu không phải tướng lãnh quân đội) sau Đại Hội 12 hay không vẫn

còn là một vấn nạn chưa có câu trả lời của CSVN.

Dĩ nhiên trong hòan cảnh Việt Nam, trước sức mạnh của dân chúng, đám công an của Trần Đại Quang sẽ trốn chui trốn nhủi

như công an của tất cả mọi chế độ độc tài khác. Nếu các lực lượng quân đội không nghe lệnh để đàn áp dân chúng như tại

Tunisia và Ai Cập thì Nguyễn Phú Trọng sẽ không còn khả năng điều động để đàn áp như Đặng Tiểu Bình đã làm tại Thiên An

Môn.

Tôi không nghĩ rằng có xác xuất cao để CSTQ gởi quân đội TQ đàn áp dân chúng tại Việt Nam hầu cứu chế độ CSVN và tự

cứu mình trong tương lai. Tuy nhiên, quan điểm trên không có giá trị tuyệt đối. Khi một chế độ độc tài đã quen ngự trị trên đầu

cổ các dân tộc liên hệ, thì không có điều gì họ không thể làm để duy trì quyền lực, kể cả những điều tồi bại nhất. Chúng ta

cũng không thể hoàn toàn lọai trừ xác xuất CSVN cầu cứu, và CSTQ gởi quân trực tiếp đàn áp các cuộc biểu tình đòi hỏi dân

chủ trong tương lai.

Nếu tình huống tệ hại đó xảy ra, liệu các tướng lãnh quân đội nhân dân Việt Nam có đủ hùng tâm tráng chí đứng lên, đứng hẳn

về phía tòan dân, lật đổ bạo quyền CSVN và trực diện đối đầu với đòan quân xâm lược Trung Quốc, còn là một vấn nạn chưa

có giải đáp.

Tuy nhiên, có một điều giới lãnh đạo CSVN và tướng lãnh quân đội nhân dân VN cần lưu ý là trong kỷ nguyên mới, cục diện

thế giới đã thay đổi. Một trong những lý do nhà độc tài Gaddafi sụp đổ là vì ngày 18/3/11, Hôi Đồng Bảo An LHQ đã quyết

định cho phép mọi biện pháp cần thiết để ngăn chận bạo quyền Gaddafi giết hại dân lành, bắt đầu bằng một “vùng cấm phi

vụ” (no fly zone) (the imposition of a no-fly zone and authorisation of "all necessary means" to protect civilians).

Ngay cả Nga Sô và Trung Quốc, tuy không ủng hộ nhưng cũng không phản đối quyết định này. Ngày 19/3/11 sau đó, Hoa Kỳ,

Anh Quốc và Pháp đã oanh tạc các vị trí của Gaddafi. Hầu như có sự đồng thuận giữa mọi quốc gia văn minh trên thế giới,

qua lời phát biểu của thủ tướng Anh là David Cameron: “Chúng ta không thể đứng yên nhìn một nhà độc tài tàn sát dân của

chính mình” ('we should not stand aside while a dictator murders his people').

(http://www.dailymail.co.uk/news/article-1367800/Libya-British-troops-action-Libya-says-David-Cameron)

Cuộc nổi dậy chống độc tài của các dân tộc Bắc Phi và Trung Đông đã đưa nhân lọai văn minh bước vào một ngưỡng cữa

mới. Đó là thế giới văn minh sẽ không dung túng cho bạo quyền sát hại dân của chính quốc gia mình. Trong kỷ nguyên mới,

Tòa Án Hình Sự Quốc Tế (International Criminal Court) có thẩm quyền truy tố và xét xử tất cả mọi kẻ phạm tội chống lại nhân

lọai (crimes against humanity), dù kẻ đó là Đặng Tiểu Bình (nếu còn sống), hoặc cựu thủ tướng TQ Lý Bằng của đàn anh TQ

liên hệ đến Thiên An Môn. Huống hồ là một Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Hồng Anh, Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh,

Trần Đại Quang hoặc bất cứ một lãnh tụ CSVN nào đã sát hại đồng bào trong quá khứ như biến cố Tết Mậu Thân tại Huế, lạm

sát trong các trại cải tạo sau 30/4/75, hoặc ra lệnh tàn sát dân chúng nổi dậy đòi hỏi dân chủ trong tương lai tại Việt Nam.

Những lạm sát của CSVN trong quá khứ lẫn những cuộc lạm sát đàn áp dân chúng biểu tình để bảo vệ độc tài đảng trị trong

tương lai, trên nguyên tắc, hội đủ điều kiện để được định nghĩa như là tội ác chống nhân lọai và nằm trong thẩm quyền của

Tòa Án Hình Sự Quốc Tế.

Dân ta đã nếm nhiều niềm quốc nhục. Đất nước chúng ta là một trong những quốc gia nghèo nhất và tham nhũng tệ hại nhất.

Đất đai và vùng biển cũng như hải đảo của chúng ta bị cường quyền CSTQ chiếm cứ với sự đồng lõa của CSVN. Tuy nhiên

trong kỷ nguyên mới, không có niềm quốc nhục nào lớn lao bằng cái nhục bị một tập đoàn độc tài cai trị và coi thường sự

thông minh của dân mình.

Nhất là, trong kỷ nguyên mới, cũng không có nỗi nhục nhã nào lớn lao cho cá nhân và tập thể của bất cứ quân đội của một dân

tộc nào, bằng nỗi nhục nhã phải làm công cụ thấp hèn cho một tập đoàn độc tài hại nước hại dân như đảng CSVN hôm nay.

Luật sư Đào Tăng Dực (RFA)
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.472 giây.