logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
xuong  
#1 Đã gửi : 09/12/2015 lúc 06:54:29(UTC)
xuong

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 8,813

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Hôm qua lạnh quá, ảnh hưởng bão tuyết vùng Đông Bắc nên xứ cao bồi cũng teo tóp theo. Ngồi uống vài chai bia với người

bạn già ngoài garage, chứ đâu dám ra sân sau nhà vừa đốt lửa vừa uống bia như mới tuần trước. Xứ sở này có thời tiết khùng

điên nhất Hoa Kỳ đến người bản xứ còn nói Texas là tiểu bang crazy weather. Thế là chúng tôi phải mở cái máy sưởi nhỏ để

hong chân, hơ tay.
Bạn về, tôi dọn dẹp, rồi ngồi đọc báo một mình. Gió bên ngoài cửa garage cứ rít lên từng cơn u uất, tiếng cây sồi già ngoài

sân trước xào xạc dữ dội, trút những chiếc lá cuối cùng xuống nền xi măng trước garage nghe rõ lắm… một năm nữa sắp đi

qua! Tôi nhớ anh bạn già vừa nói, “thời gian bên đây sao mà nhanh quá, tuổi già xồng xộc tới mà biết sợ! Lạnh cỡ này đối với

tụi mình hồi mới qua Mỹ có ăn thua gì. Ông còn nhớ…” Tôi biết bạn tôi muốn nhắc lại những lần tuyết đá mênh mông, hãng

đóng cửa lý do thời tiết là thể nào chúng tôi cũng kéo tới nhà ai đó để nấu nướng, vui chơi cho hết ngày với tiêu đề “Mừng lễ

tuyết”. Dĩ nhiên là làm đồ tể ngoài trời, ngoài sân sau nhà, ngoài garage, chứ đàn ông làm bếp thì đâu bà vợ nào cho làm

trong nhà; trong gian bếp sạch hơn phòng ngủ của đàn bà Việt nam!

Thời gian quả lợi hại hơn hết mọi thứ trên đời. Mới đó mà hai tay đầu trần, chân đi dép kẹp cả ngày ngoài trời tuyết không sợ.

Mới đó mà mới đây đã tới, hai thằng con nít sống lâu năm ngồi trong garage, phải mở máy sưởi vì lạnh, trong khi bên ngoài

tuyết đã đâu rơi. Tôi an ủi bạn, “ông nghĩ lại đi. Cứ nói câu: hồi mình mới qua, nghe như mới hôm qua. Nhưng kỳ thực thời

gian ông ở đây đã gấp đôi tuổi đời hồi ông mới tới…”

Bạn về. Tôi không đến nỗi sợ già, nhưng đã đến lúc biết tiếc nuối thời gian. Nhìn cái máy sưởi nhỏ mới mua mà tiếc mấy chục

năm không sợ lạnh đã là dĩ vãng. Bởi mười đầu ngón tay với mớ ngón chân cứ tê cóng, đòi đông đá. Mắt mũi chó hùa, mũi thì

cứ hắt xì xằng, mắt đòi thay kính, nên những hàng chữ như đàn kiến trên màn hình laptop mờ dần. Chỉ cái điện thoại bên cạnh

tôi, Vô Thường vẫn chơi độc tấu ghi-ta mấy bản nhạc quen, nghe buồn não nuột… Tôi dựa tường thiếp đi theo nỗi nhớ Sài

gòn cứ nhất định không buông tha tôi vào những dịp cuối năm. Không gian và thời tiết vô mùa hoài niệm; hay khi bỗng dưng

đời sống không còn những tất bật, náo hoạt của tiếng máy cắt cỏ bên nhà hàng xóm, tiếng trẻ con đạp xe đạp năm ba đứa

ngoài đường, chúng thường nói cười với nhau rôm rả từ xa, rồi rõ dần đến ngồi trong garage vẫn nghe rõ, tiếng cười hồn

nhiên của tuổi nhỏ xa dần cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, đám nhỏ đã đạp xe qua nhà một đoạn nên hết nghe tiếng chúng là

hiện thực; và trong mơ hồ, tuổi nhỏ tôi hiện về những ngày tháng rong chơi trên chiếc xe đạp với bạn bè… Chắc các bạn tôi

bây giờ sinh sống trên khắp địa cầu, cũng có những lúc ngồi nhìn lại mình qua hình ảnh đám trẻ như tôi…
Nghĩ lại những người Việt đến đây từ năm 1975, những người có thời gian xa quê bằng tuổi đời từ lúc đến thì nay đã tám

mươi, kẻ mất người còn. Những người trẻ lúc ấy thì nay cũng đã già. Bốn mươi năm nhìn lại từ ngày người Việt bỏ nước ra đi.

Ôi biết bao là sinh ly tử biệt. Nếu nhìn ở mặt tích cực hơn để đừng để trời cuối năm hành hạ nỗi nhớ, tình hoài hương bất tử

trong lòng người tha hương, cộng đồng Việt nam ở hải ngoại, riêng ở Mỹ là đông nhất và thành công cũng đáng kể lắm! Tôi cố

moi trí nhớ về những thành công của người Việt ở Mỹ trong bốn mươi năm qua để ôn lại trang báo cuối năm, nhưng sao chỉ

nghe văng vẳng tiếng bác Năm chè rao hàng trên con hẻm vừa tối vừa mưa…

Trời lạnh quá, chứ không tôi đã ngủ ngồi tới sáng. Bởi giật mình vì lạnh thì đồng hồ trên tường garage đã chỉ quá nửa đêm.

Trong trạng thái nửa mơ nửa tỉnh, tôi còn nghe tiếng bác Năm vọng theo những con hẻm dài… “chè… đây! Chè đậu xanh bột

bán nước dừa…” tiếng bác Năm không nhầm lẫn với ai được vì đó là bà tiên trong tuổi nhỏ của tôi. Những hôm mưa gió, ế

ẩm. Bác Năm phải khoét cái túi ny-lon lớn thành áo mưa để mặc; bác dắt đôi dép vào quang gánh để vững chân trần với trơn

trợt trời mưa mà cố bán hết gánh chè thì mới có tiền để mua gạo về nhà nấu cơm cho con cháu ăn. Thế mà thằng nhóc tôi,

không nói, chỉ nhìn thôi! Ánh mắt của một thằng bé không tiền, chỉ có người mẹ nghèo mới hiểu được những cơn thèm của

tuổi thơ xã hội chủ nghĩa. Thế nên bác Năm, đã định làm lơ như không thấy để đi luôn; nhưng không đi qua được Phật tánh ở

trong lòng mẹ Việt nam nên quay lại. Bác đậu gánh chè xuống trong gió mưa, hé cái nắp nội chè ra tí thôi thì mùi hương đậu

xanh bột bán nước dừa đã đưa tôi lên đến thiên đàng. Thế là Phật bà ban phước xong, lại lần lũi đi vào mưa gió và ngõ cụt!

Ánh đèn vàng soi bóng bác Năm với gánh chè ế ẩm hôm gió mưa… Ôi những sợi mưa qua ánh đèn vàng ngõ hẻm đã làm

tóc bác Năm bạc trắng như mưa. Làm sao tôi quên được bác Năm bán chè với tiếng rao ngày cũ của bác.

Đêm đông lạnh lẽo, ngồi nhớ lại những tiếng rao hàng gánh xa xưa. Đã bao năm rồi không còn nghe lại tiếng rao hàng chào

mời của người bán gánh – là một nét văn hoá đặc thù Việt nam. Nghĩ về cuộc ra đi vĩ đại nhất của nhân loại cuối thế kỷ hai

mươi của người Việt nam bỏ nước ra đi. Chúng ta đã mang đến đất nước này nhiều nét văn hoá Việt để góp phần vào nền

văn hoá đa dạng nơi đây. Trong cộng đồng người Việt, nhiều gia đình Việt nam vẫn còn giữ được những phong tục tập quán

về những ngày lễ, tết, ngày giỗ và cố gắng duy trì như những di sản của cha ông để lại. Đó là điều ấm lòng viễn xứ cho những

ai đã biết lạnh khi mùa cuối năm về. Cái lạnh không lẻ loi riêng nhiệt độ ngoài trời xuống thấp, mà người bạn đồng hành của nó

mới ác ôn, chính là cái lạnh chân trời góc biển trong lòng. Lạnh thời tiết thì mở máy sưởi lên là xong, nhưng lạnh lòng thì chỉ

có bếp lửa của mẹ những ngày còn thơ mới đủ ấm. Củ khoai lùi tro than trong bếp lửa của mẹ vẫn nguyên mùi thương tưởng

trong lòng gìa; tiếng bác Năm rao chè trộn trong tiếng gió mưa đêm xưa còn vang vọng trong đêm đông viễn xứ…

Người Việt đã đem đến Mỹ nhiều nét văn hoá của dân tộc Việt. Nhưng có lẽ ẩm thực là nét văn hoá dễ tiếp cận nhất. Nên phở,

bánh mì, chả giò, cà phê sữa đá… đã ngạo nghễ có tên trong những món ăn uống ưa thích của người bản xứ. Càng vinh dự

khi tên nguyên thủy của phở vẫn được người Mỹ giữ nguyên là phở, bánh mì vẫn là bánh mì, không bị Mỹ hoá như những chủ

tiệm phở đi dịch ra tiếng Anh trong thực đơn của nhà hàng mình là beef noodle soup, hay chicken noodle soup… Đến nước

mắm của ta, trên báo New York Times hay Wall Street Journal vẫn được giữ nguyên là nước mắm, chỉ con buôn nước mắm

mới phụ đề Anh ngữ là fish sauce để bán chạy hàng. Người Mỹ biết trân trọng văn hoá của người Việt trong khi người Việt lại

tự Mỹ hoá đặc trưng văn hoá của mình!
Món cà phê sữa đá cũng là món thức uống rất đặc biệt của người miền Nam nước Việt. Vì trời Sài gòn thường nóng từ sáng

tinh mơ cho tới chiều mờ, thì uống một ly cà phê sữa nóng có ngon lành gì với mồ hôi sẽ tươm ra như tắm. Thế nên người

Sài gòn mới pha vào ly cà phê một hai muỗng sữa đặc có đường, rồi hoà chung với đá cục đập nhuyễn. Trời Sài gòn nóng đổ

lửa, giữa trưa mà đổ vào miệng một ngụm cà phê sữa đá thì sướng hơn lên trời.

Nghĩ rộng hơn, mỗi người Việt đều đem đến Mỹ những nét văn hoá riêng của gia tộc, lồng trong văn hoá chung của dân tộc.

Như phở là văn hoá chung, nhưng mỗi nhà nấu phở theo phương cách gia đình nên càng làm cho phở thêm phong phú.

Phong phú đến một lần tôi được bạn mời ăn phở, ăn chung với mấy người bạn Mỹ cùng đến chơi nhà anh bạn tôi. Chị nhà nấu

phở gia truyền là phở tôm. Mấy tay Mỹ xì xà xì xụp khen ngon, riêng Mít tôi thấy quá đà sáng tạo; vì tô hủ tíu hải sản đã có chỗ

đứng trong thực đơn rồi!
Nhưng ly cà phê sữa đá, phải khẳng khái, kiêu hãnh nói là của người Sài gòn. Nhưng khi Mỹ du sang đây đã Mỹ hoá theo khẩu

vị bản xứ là người ta thêm vào ly cà phê sữa đá đó hương vị chocolate, caramel hay vanilla… là hương vị bản xứ để làm giàu

cho những thương hiệu cà phê như Starbucks, Dunkin’ Donuts, Coffee Bean v.v… Dù sao ngon nhất vẫn là cà phê Buôn Mê

Thuột pha với sữa đàn ông là ngon nhất vì chỉ ở Việt nam mới có sữa ông Thọ.

“Chúng ta đi mang theo quê hương”, cụm từ ngày nào nghe còn mủi lòng thì máu Việt trong ta chưa loãng. Nhưng có quá

nhiều thứ chúng ta không mang theo được như tiếng rao hàng gánh của bác Năm ở xóm tôi. Dù bao năm không còn nghe

nữa nhưng nó vẫn ở trong lòng. Đó là tiếng nước tôi, đã bào mòn phế phủ hơn văn minh tây phương; thử hỏi là sao quên

được tiếng bác Năm trong gió mưa đêm, những sợi mưa dưới ánh đèn vàng bạc trắng theo quang học thì tôi không thấy! Tôi

chỉ thấy tóc bác Năm chè bạc trắng như những sợi mưa. Giả sử một người Mỹ yêu Việt nam tới mức lấy được bằng Việt ngữ

bốn năm ở đại học nào đó trong nước Việt; thì cũng chỉ tiếng Việt bốn ngàn năm của tôi mới đọc được gió mưa trong sợi tóc

bạc của bác Năm chè…
Sống ở Mỹ mấy chục năm, thèm nghe một tiếng rao hàng gánh giữa đêm đông như Tưởng Năng Tiến thèm nghe tiếng chửi

thề khi bơ vơ nơi đất khách quê người, “excuse me/ I’m sorry nói mãi/ thèm một câu chửi thề…” Kể ra, người Việt hải ngoại

không chỉ biết làm thơ tự do vì đã quên tiếng Việt. Đôi khi cũng có người còn nhớ tiếng nước tôi là câu chửi thề. Nó thiếu văn

hoá nhưng lại là văn hoá đặc trưng của tiếng nước tôi.
Ôi những tiếng rao của những bà mẹ nghèo văng vẳng trong những khu xóm ở quê nhà, “Ve chai, dép đứt,… thau nhôm hư,

tập báo cũ… bán… h…ô…n…”; chiều mưa cuối năm mà nghe “mài dao mài k…é…o… đây!” Nghe cái chữ “hôn”, chữ “kéo”

kéo dài não nuột như nghèo muôn thuở; nghèo từ tiền kiếp tới hậu lai. Nên tôi thề không giàu để còn có quê xưa hơn có tiền

rồi sanh tật.
Ở đây, Mỹ quốc giàu mạnh nhưng như không ảnh hưởng gì tới những cộng đồng người Việt thiểu số sống dọc ven biển bờ

Đông. Ngôi chợ chồm hổm ở khu xóm người Việt tại New Orleans, Louisiana… cũng là những bà mẹ Việt Nam, cũng những

trái bầu, trái bí, bó rau trồng ở nhà; con tôm, con cá đánh bắt được ngoài biển thì đem ra bày bán ngay bãi đậu xe của nhà thờ,

góc đường không đông người qua lại. Các mẹ cũng vẫn bày trên những mẹt tre, lá chuối. Dáng mẹ ngồi xổm y như mấy mươi

năm trước ở những làng quê, xóm biển bên nhà. Nhưng chắc trên đất khách quê người nên không nghe tiếng mời chào, lời

rao có vần có điệu nữa.

Tiếng rao hàng gánh ngày xưa ở quê xa thường đi chung với đôi quang gánh, hay cái thúng, cái mẹt đội trên đầu người bán

hàng rong nghèo khó. Nhưng sao lại còn mãi trong ký ức tha hương tôi đôi quang gánh trên vai những mệ chạy giặc từ miền

trung vào; Mệ mua vài mớ rau, vài ký đậu đũa, mớ cà chua, mớ dưa leo, mớ bông so đũa, nhúm ớt… từ miệt Củ chi, Hóc môn,

rồi bán gánh dài về tới Sài gòn. Mệ đi trong nắng, mệ lội trong mưa. Ôi chiến tranh làm mắt mệ đã khô tuyến lệ nên không thấy

mệ khóc; nhưng lưng mệ còng vì hoà bình, nên khói thuốc Cẩm lệ vấn bằng lá chuối của mệ đặc quánh lại những chiều mưa

cuối năm se lạnh. Mệ nhớ nhà, nhớ miền trung chiều giáp tết, thương tưởng người thân thất lạc muôn phương… gánh hàng ế

ẩm trên vai mệ đậu xuống bến Bạch Đằng, mệ ngồi nhìn lục bình trôi trên sông Sài, khói thuốc mệ bay về cố thổ… là hình ảnh

tôi chỉ ghi nhận được thời trẻ để khi trôi miên man trên dòng đời, đêm đông viễn xứ nhả làn khói dạt trôi mới nhớ tới mệ điêu

linh năm nào…

Đêm đông, ngồi nhớ tiếng rao ngày cũ. Tiếng rao hàng của những người bán rong nghèo khó – sao lại là cái chúng ta đi

không thể mang theo đích thực của cội nguồn.
Chỉ có nỗi buồn màu hổ phách sóng sánh đêm đông…

Phan
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.179 giây.